Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

Có nên học Ấn Độ xuất khẩu thạc sĩ, tiến sĩ không

Việt Nam ta có nên học Ấn Độ xuất khẩu Thạc sĩ, tiến sĩ ra nước ngoài? Hãy cùng phân tích lợi và hại của việc này qua bài viết sau đây nhé.
Nên lựa chọn lực lượng lao động có bằng cấp, thậm chí trình độ cao để khẳng định vị thế, chất lượng lao động của VN khi ra thị trường nước ngoài.
xklđ nhật bản tại Châu Hưng thế nào?
Việt Nam hãy học Ấn Độ xuất khẩu Thạc sĩ, Tiến sĩ?
“Nên xuất khẩu lao động có bằng cấp, thậm chí trình độ trên ĐH”
Một số chuyên gia nhận định, VN nên học hỏi Ấn Độ, đưa ra nước ngoài những người cán bộ về khoa học, tin học, cán bộ Ths, TS, nghĩa là chất lượng cao.
Trao đổi với Đất Việt, về vấn đề này, ngày 7/9, PGS.TS Hà Huy Thành - Viện hàn lâm khoa học Xã hội VN (KHXH ) cho hay: “Chúng ta nên đi theo cách làm của Ấn Độ, thứ nhất, chất lượng lao động đã qua đào tạo thất nghiệp ở VN quá nhiều, đặc biệt, trong khi muốn đi làm đến những vùng nước phát triển, cũng yêu cầu lao động có trình độ, ít nhất cũng phải ĐH trở lên.
Hơn nữa, nhận thức về xã hội của những người từ nông thôn ra cũng khác với người có bằng cấp.
Việt Nam hãy học Ấn Độ xuất khẩu Thạc sĩ, Tiến sĩ?
Thứ hai, những người có trình độ khả năng tiếp thu tốt hơn, nhanh hơn, ý thức của người đã có học vấn cao hơn rất nhiều so với lao động khác. Chính vì thế, tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm phải xuất khẩu cả những người đã có bằng cấp, thậm chí trình độ cao trên ĐH”.
Theo ông Thành, chúng ta không nên nghĩ rằng đó là sự lãng phí chất xám, bởi nếu như họ ở lại VN nhưng lại không có việc làm, thì điều đó còn lãng phí hơn, gây ra tâm lý tiêu cực, rượu chè, cờ bạc.
Mặt khác, khi xuất khẩu lao động trình độ cao mới thể hiện được vị thể của lao động Việt. Trong khi, lao động Việt sẽ đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng, tuy không phải tất cả.
Ông cho biết thêm: “Tôi đã từng ở Nhật Bản rất lâu, người lao động của họ có ý thức, trách nhiệm XH cao, nề nếp, kỷ luật rất nghiêm. Nhưng tất cả các yêu cầu này liên quan đến ý thức cá nhân, mà ý thức của lực lượng có bằng cấp là điều dễ làm.

 Ngay cả những người đã qua đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ sang Nhật Bản cũng sẽ trưởng thành lên rất nhiều. Tuy điều kiện đáp ứng của chúng ta cũng mất một thời gian dài bỡ ngỡ ban đầu, nhưng sau đó sự khéo léo, trình độ tay nghề của người Việt cũng tốt nên không đáng lo”.
GS.TS Phạm Xuân Nam - Viện hàn lâm khoa học Xã hội VN cũng cho rằng, đây chính là xu hướng của các nước tiên tiến khi chuyển sang mô hình phát triển kinh tế tri thức, các nguồn lực lao động, tài nguyên, đều sử dụng yếu tố tri thức để tạo ra những giá trị gia tăng cao nhất.
Tất cả các nước trên thế giới, đi theo nền kinh tế thị trường hiện đại, đều xác định phát triển theo chiều sâu, lấy nguồn lực con người có tri thức cao là nền tảng.
Hơn nữa, theo ông Nam, một số lao động trình độ cao của VN cũng không tìm được việc làm trong nước, thất nghiệp nhiều, họ cũng tự tìm cách xuất khẩu, mà nhà nước cũng không ngăn cản việc này.
Tranh cãi việc xuất khẩu lao động trình độ cao
“Tôi nghĩ đấy là xu hướng của cả nhân loại, VN cũng phải đi theo xu hướng đó, nói phát triển ngay kinh tế tri thức thì chắc chắn chúng ta chưa đủ khả năng, bởi đội ngũ lao động chân tay quá đông, nên phải lựa chọn phương án, phát triển kết hợp giữa cả chiều rộng và chiều sâu, tận dụng nguồn lao động dồi dào của mình”, ông Nam nhận định.
Bổ sung thêm kiến thức cho lao động Việt
Nhìn nhận ở góc độ khác, PGS.TS Hà Huy Thành cho rằng, cái được lớn nhất của việc xuất khẩu lao động trình độ cao là tạo được khối lượng công ăn việc làm mà chúng ta đang thiếu. Bên cạnh đó, sau một thời gian 5 năm, hay lâu hơn nữa làm việc bên các nước phát triển, trình độ tay nghề của cán bộ VN sẽ tăng lên rất nhiều. Nhìn trước mắt, họ sẽ có thu nhập để sống.
Ông Thành cho hay: “Đối với các cán bộ tại Viện Hàn lâm khoa học xã hội để ra nước ngoài làm việc cũng không phải ai cũng được mời. Số lượng được mời rất ít. Còn số người ra nước ngoài để học tập thì rất nhiều.
Giả sử, người ta chỉ mời một cơ quan nghiên cứu nào đó hợp tác, tìm đối tác VN sang bên đó cùng giải quyết các vấn đề mà người Nhật quan tâm đối với VN như vấn đề đạo đức XH, tâm lý giáo dục, những lĩnh vực khác. Nhưng không phải cán bộ nào của VN được ở bên đó hoàn toàn, bình thường thì 1 năm mời sang 3 tháng, sau đó trở về nước”.
Theo ông Thành, thì trước đây, các cán bộ Việt sang Liên Xô nhiều nhất, sau đó là Đức, còn bây giờ thì có Úc, Hàn Quốc là chủ yếu. Nhật Bản thì ít hơn vì yêu cầu trình độ của Nhật rất cao, trong khi, tiếng Nhật không hề dễ, rất khó, cho nên lao động của VN sang Nhật ít hơn so với các nước khác. Hiện nay, Thạc sĩ VN học ở Mỹ là nhiều nhất vì tiếng Anh là phổ biến.

Kiều hối TP.HCM trong năm nay sẽ tiếp tục tăng, ít nhất là 10%

Theo phân tích của các nhà đầu tư thì kiều hối TP.HCM trong năm nay sẽ tiếp tục tăng, ít nhất là tăng 10% so với năm ngoái, nghĩa là tăng lên khoảng 5,5 tỉ đô la Mỹ.
Kiếu hối về TPHCM liên tục gia tăng trong các năm trở lại đây, từ mức 4,1 tỉ đô la Mỹ của năm 2012, đến 2013 con số này là 4,85 tỉ, 2014 là 5 tỉ và năm nay dự báo là 5,5 tỉ đô la Mỹ.
Tỷ giá đã hai lần điều chỉnh trong tháng 8, và tính từ đầu năm một đô la Mỹ đã tăng giá khoảng 5% so với tiền đồng. Bên cạnh đó, nền kinh tế các nước đang khởi sắc hơn, trong khi tại Việt Nam nhiều cơ hội đầu tư cũng đến trong năm nay. Do vậy ông Minh dự báo nguồn ngoại tệ từ các nước gửi về bằng đồng bạc xanh có thể sẽ tăng trong các tháng cuối năm.
Theo ông Nguyễn Hoàng Minh, kiều hối 8 tháng đạt 2,75 tỉ đô la Mỹ, tăng gần 14% so với cùng kỳ. Ông Minh cho biết, một điểm khá tích cực là lượng kiều hối người dân nhận xong bán cho ngân hàng cũng tăng đều qua hàng năm, như trong 8 tháng đầu năm nay, khoảng 30% lượng kiều hối được bán cho ngân hàng; những năm trước tỷ lệ này thấp, khi mà giá đô la Mỹ trên thị trường tự do cao cách biệt so với ngân hàng.
xklđ đi nhật là một lựa chọn không sai hiện nay
Theo ông Minh, kiều hối thường tăng mạnh trong các tháng của quí 1 và quí 4 hàng năm nên hiện tại các ngân hàng đang chuẩn bị các chương trình để đón nhận kiều hối. Một số ngân hàng như Vietcombank, SCB, BIDV đã liên tục có các chương trình khuyến mãi cho khách hàng nhận kiều hối thông qua các ngân hàng này. Kiều hối của TPHCM chuyển về nhiều nhất từ khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc và Mỹ. Những thị trường giảm lượng gửi về là châu Âu, Nga do giá dầu sụt giảm mạnh và tình hình kinh tế các khu vực này gặp khó.
Lao động làm việc tại nước ngoài cũng mang lại một nguồn kiều hối quan trọng cho Việt Nam. Trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động Thương binh xã hội, cho biết mặc dù không có sự tách bạch về lượng tiền nhận về từ người Việt Nam ở nước ngoài là lao động xuất khẩu hay các đối tượng khác, nhưng tính toán riêng của cục này cho thấy lượng kiều hối dự báo chuyển về có thể tăng cao hơn so với năm ngoái, khi mà lượng lao động đi làm việc tại nước ngoài cũng tăng.
Năm ngoái, lượng kiều hối của lao động nước ngoài chuyển về Việt Nam ước khoảng 2,2 tỉ đô la Mỹ. Trong năm nay dự kiến lượng lao động xuất khẩu vào khoảng 115.000 người, tăng hơn con số 105.000 người của năm ngoái. Các thị trường chính của xuất khẩu lao động trong năm nay là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Đầu năm nay, tờ Reuters ngày đưa tin rằng Việt Nam được dự báo sẽ nhận khoảng 13 đến 14 tỉ đô la Mỹ kiều hối trong năm 2015, tăng 10% so với mức 12 tỉ đô la Mỹ trong năm 2014. Con số này theo Reuters là do NHNN Việt Nam công bố. Tuy thế, đã rất lâu NHNN không có thông tin cụ thể về lượng kiều hối chuyển về từ các nước gửi cho các báo

Nhật bản đang thiếu lao động trầm trọng và cơ hội cho Việt Nam

Tại Nhật Bản, lượng lao động thiếu trầm trọng nên mỗi tháng có đến hàng chục nghìn việc làm được đăng tuyển mà không có hồ sơ nào được nộp – theo thông tin từ VnEconomy
VnEconomy dẫn thông tin trên truyền thông quốc tế cho hay, từ các cửa hàng bán mì cho đến nhà máy sản xuất ô tô của Nhật Bản phải tìm kiếm đến mọi kênh tuyển dụng, chấp nhận bỏ thêm chi phí đào tạo tiếng Nhật, để tuyển được người làm.
xkld qua nhat ban sẽ được hỗ trợ về nhiều mặt
Theo quy định của Chính phủ Nhật Bản, sinh viên nước ngoài khi đến Nhật học được phép làm thêm không quá 28 tiếng mỗi tuần. Nguồn nhân lực nước ngoài này đã giúp bù đắp nhiều cho những vị trí cần lao động chân tay mà người bản xứ không muốn làm.
Nhiều công ty Nhật Bản còn tìm cách tận dụng nguồn lao động giá rẻ thông qua các chương trình thực tập sinh, với mục tiêu được tuyên bố là trang bị cho người lao động kỹ năng cần thiết để họ quay về “xây dựng đất nước”.
Một thống kê của Bộ Lao động Nhật Bản cho thấy tính đến cuối năm 2014, có khoảng 788 nghìn lao động nước ngoài đang làm việc hợp pháp tại Nhật, tăng khoảng 15% so với hai năm trước đó. Con số này tương đương 1,4% tổng lực lượng lao động.
Vấn đề dân số già và ngày một giảm đang khiến chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe rất đau đầu. Một ước tính cho thấy từ nay cho đến năm 2060, dân số Nhật Bản thuần chủng có thể giảm đến 30%. Ngoài ra, khi người Nhật Bản trẻ ngày một ngại làm các việc chân tay, vấn đề nhân lực cho nhiều ngành này sẽ còn căng thẳng hơn nữa.
Thực tế khát nhân lực của Nhật Bản trái ngược với tình trạng thất nghiệp đáng sợ ở nhiều nền kinh tế châu Âu, châu Á, trong đó có Việt Nam. Vào tháng 7/2015 Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã công bố bản tin cập nhật thị trường lao động quý I/2015, trong đó ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm đều gia tăng.
Cụ thể, trong 3 tháng đầu năm, cả nước có hơn 1,1 triệu người thất nghiệp, tăng 114.000 người so với cùng kỳ năm 2014. Số lao động trình độ đại học, sau đại học thất nghiệp tăng từ hơn 162.000 lên gần 178.000 người; lao động tốt nghiệp cao đẳng thất nghiệp tăng từ 79.000 người lên hơn 100.000; lao động không có bằng cấp từ gần 630.000 lên 726.000.
Tính theo trình độ chuyên môn, tỷ lệ thất nghiệp cao nhất nằm ở nhóm có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề, tương ứng là 7,2% và gần 6,9%. Nhóm không có bằng cấp, chứng chỉ có tỷ lệ thấp nhất ở mức 1,97%. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước là 2,43%, tăng 0,22% so với cùng kỳ năm 2014.
Điều tra trên cả nước cho thấy, tỷ lệ người thiếu việc làm cũng tăng nhẹ. Số người làm việc dưới 35 giờ mỗi tuần và có mong muốn làm thêm giờ là 1,13 triệu người, tăng so với cuối năm 2014, trong đó số lao động thiếu việc làm ở nông thôn cao gần gấp đôi so với khu vực thành thị.
Đã nhiều lần các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao lao động Việt Nam ở sự thật thà, chăm chỉ, cần mẫn học hỏi, đặc biệt là tính cách vui vẻ, lạc quan, có chí tiến thủ.
Theo thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu lao động, thị trường xuất khẩu lao động sang Nhật Bản tăng trưởng 96,1% trong năm 2014, hứa hẹn sẽ trở thành “thị trường vàng” trong thời gian tới.

Thất bại việc xuất khẩu nông dân sang châu Phi, vì sao

Theo giáo sư, tiến sĩ Võ Tòng Xuân cho biết thì trước đây, đã từng có chương trình xuất khẩu nông dân sang châu Phi, tuy nhiên chỉ đưa được 1,2 người rồi dừng lại. Lý do gì khiến cho chương trình này bị dừng lại. Nguyên nhân do đâu, cùng tìm hiểu trong buổi phỏng vấn dưới đây nhé.
xkld o nhat ban tốt hơn so với bên châu Phi
PV: - Nông sản Việt những năm qua có rất nhiều "người khổng lồ", từ gạo, cà phê đến điều, cao su, hồ tiêu... với số lượng xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, bi kịch của hầu hết những "người khổng lồ" này là đều đứng trên một đôi chân quá yếu: phụ thuộc thị trường xuất khẩu, lợi nhuận thấp... Một vị chuyên gia trong ngành đã chỉ thẳng, Việt Nam nhập khẩu hầu hết, trừ đất và.... nông dân. Ông bình luận như thế nào về thực trạng này, đặc biệt đối với một đất nước luôn coi nông nghiệp là mũi nhọn trong nền kinh tế?
GS.TS Võ Tòng Xuân: - Có những thứ Việt Nam không thể không nhập vì công nghiệp cơ bản yếu. Đối với cây lúa, một "người khổng lồ" về xuất khẩu, hãy xem những gì phục vụ cho cây lúa có thể sản xuất trong nước? Thứ nhất, về giống, chỉ có miền Nam chủ động được, còn ngoài Bắc chủ yếu mua giống của Trung Quốc. Cái nãy là lỗi của nhà nước. Nhà quản lý không thiết tha chỉ đạo nghiên cứu, lơi lỏng trong quản lý tiền đầu tư cho nghiên cứu khiến nó bị xà xẻo thế nào cũng không biết. Đó là chưa kể một bộ phận nhà quản lý thích nhúng tay vào mấy công ty để kiếm lời.
Thứ hai, Việt Nam chưa làm ra được cái máy cày, máy xới nào cho ra hồn do nền công nghiệp quá yếu kém nên phải nhập của Trung Quốc, Nhật Bản...
Thứ ba, về phân bón, Việt Nam mới tự chủ được phân nửa lượng phân u rê, kali phải nhập hoàn toàn, phân lân cũng phải nhập dù có quặng apatit nhưng sản phẩm chế biến ra dùng không hữu hiệu nên đành phải mua phân DAP.
Thứ tư, về thuốc trừ sâu, Việt Nam cũng không có nhà máy nào chế biến được mà phải nhập nguyên liệu về để pha chế.
Đến khi thu hoạch, lao động làm biếng thì thuê người gặt cũng phải tốn 200 nghìn đồng/ngày. Nếu mướn máy gặt của Trung Quốc hay Nhật Bản thì chỉ gặt trong nháy mắt là xong, mất chừng 2 triệu đồng.
Một vấn đề lớn của Việt Nam là lãnh đạo không chú ý một cách căn cơ, hữu hiệu về giáo dục. Giáo dục cứ hô hào đổi mới nhưng không có người đứng ra làm những thứ vẫn nói suốt. Hệ quả là không có người thực sự tài giỏi để làm, đã vậy còn cho vào guồng máy của nhà nước bằng cấp thật nhưng học giả thì nhiều. Vì thế làm sao nông sản Việt có thể đứng trên đôi chân của mình được.
PV: - Hệ quả của những "người khổng lồ chân đất sét" là sự bấp bênh của cả nền nông nghiệp cũng như số phận bấp bênh của người nông dân với điệp khúc được mùa rớt giá, trồng chặt-chặt trồng. Nhiều chuyên gia nói một cách chua chát về phận bạc của nông dân Việt Nam vì xét về năng lực: họ cải tạo vùng đất đói nghèo hoang dại Camargue thành vựa thóc trù phú chuyên cung cấp gạo sạch cho nước Pháp, sang Lào, Israel... trồng lúa.  Ông chia sẻ ở mức độ nào với nhận định trên? Có ý kiến đề xuất đẩy mạnh "xuất khẩu" nông dân Việt để người nông dân có thu nhập và làm giàu được bằng nghề nông, ông bình luận như thế nào về tính khả thi của đề xuất trên?
GS.TS Võ Tòng Xuân: - Sự phát triển không bền vững của ngành nông nghiệp kéo theo sự bấp bênh của cả đất nước. Nhiều doanh nghiệp, nhà quản lý không cần biết số phận nông dân ra sao, chỉ miễn sao đầy túi của họ.
Nông dân Việt rất giỏi, đã đi hơn 80 nước trên thế giới. Những người làm nông nghiệp chúng tôi thường nói với nhau: nông dân làm lợi cho người khác ăn. Người nông dân làm ra được hạt lúa thì các thương lái từ địa phương đến tỉnh, đến ông thương lái to nhất là Vinafood đã ăn mất rồi. Nhà nước che chắn cho hệ thống buôn bán lúa gạo từ Vinafood trở xuống mấy thương lái ở tỉnh, huyện, còn nông dân không có tiếng nói nào hết.
Về đề xuất "xuất khẩu" nông dân, tôi đã tính từ trước nhưng không làm được. Từ năm 2006, tôi đã xây dựng chương trình đưa nông dân qua châu Phi. Vào thời điểm đó, tôi hợp tác với  Sierra Leone để giúp họ sản xuất lúa. Khi qua Sierre Leone khảo sát tình hình, tôi nhận thấy người dân ở Sierra Leone rất ít kinh nghiệm trồng lúa cao sản, hệ thống thuỷ lợi gần như không có gì và phương tiện làm đất như máy cày, máy xới lại càng không có nên mùa vụ lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Vì vậy cần phải dạy họ theo kiểu cầm tay chỉ việc và để làm cách này thì nông dân mình có thể làm tốt bởi Sierra Leone đất rộng, điều kiện khí hậu khá giống với Việt Nam sẽ có thể áp dụng kỹ thuật canh tác ĐBSCL.
Tháng 8/2006, 3 kỹ sư nông học sang thử nghiệm 60 giống lúa cao sản dưới 100 ngày, chọn được 8 giống có năng suất 4,5 đến 5,2 tấn/ha (so địa phương chỉ đạt dưới 2 tấn/ha), và nhân ra được 3 tấn lúa giống. Hai kỹ sư thuỷ lợi cũng sang thiết kế hệ thống thuỷ nông hoàn chỉnh. Xong đâu đấy, tôi dự tính đưa nông dân Việt Nam sang để cùng nông dân Sierra Leone lo sản xuất, theo tỉ lệ 1 nông dân Việt Nam dạy nghề cho 4 nông dân Sierra Leone.
Kế hoạch là như vậy nhưng cuối cùng chỉ 1, 2 người đi được vì nhà nước không lo được.
Tương tự, vừa rồi ở ĐBSCL cũng lên kế hoạch đưa nông dân sang Lào trồng lúa sạch nhưng cũng chỉ làm lõm bõm vì không tổ chức được, chỉ có một số công ty tham gia. Nhà nước cứ để dân tự phát làm thì rất khó có thể làm được.
Ở Brazil có làng Nhật Bản, nông dân Nhật Bản sang đó trồng lúa. Để được như thế, chính phủ Nhật phải qua dàn xếp với chính phủ Brazil rằng đất của họ quá  rộng, dân lại thưa, làm sao có thể sản xuất đầy đủ được và đề nghị đưa nông dân Nhật sang giúp. Sau khi Brazil đồng ý, hợp tác xã nào của Nhật muốn đi thì nhà nước cho phép, tuy nhiên cũng phải đăng ký. Theo đó, những người có tuổi ở lại để lo an toàn lương thực cho Nhật Bản, còn người trẻ sau khi học hỏi xong kinh nghiệm của cha ông sẽ lên tàu sang Brazil, đem theo hạt giống, nông cụ. Họ định cư ở Brazil, giúp đỡ nông dân Brazil và giàu lên nhanh chóng.
Phải học tập mô hình của Nhật Bản xuất khẩu như thế, còn như Việt Nam, đi qua làm mướn, gặt thuê hay xúc đất thì không thể làm giàu được. Muốn xuất khẩu được nông dân, nhà nước phải đi trước, dàn xếp với chính phủ nước bạn rồi mới đưa nông dân qua. Nói xuất khẩu thì dễ nhưng làm sao có thể làm được khi không có tổ chức, không có kế hoạch. Ở Việt Nam chỉ có một cái "hay": nói là nói vậy thôi còn không ai làm.
PV: - Nhìn ở chiều ngược lại, nhiều nhà đầu Hàn Quốc, Nhật Bản, Hà Lan... sang Việt Nam để phát triển nông nghiệp, tận dụng đất đai và nhân công giá rẻ. Điều này đã chứng minh điểm yếu cốt tử của nền nông nghiệp Việt Nam là vấn đề quy trình sản xuất nông nghiệp, từ giống tới công nghệ, thu hoạch, công nghệ sau thu hoạch và phát triển thị trường. Vậy lỗi này là do ai? Chúng ta đã nhận thấy hạn chế này từ khi nào và quá trình thay đổi đã diễn ra thế nào đến mức ngày càng bị phụ thuộc vào nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc?
GS.TS Võ Tòng Xuân: - Lỗi này là do quản lý điều hành vĩ mô. Nhiều người cứ đổ cho doanh nghiệp, có những doanh nghiệp rất giỏi nhưng họ lại bị kẹt bởi cơ chế, chính sách nên cũng đành chịu chết.
Ví dụ đơn giản nhất là lúa gạo, cứ nói doanh nghiệp làm không ra gì vì quản lý tồi. Nhưng có những doanh nghiệp quản lý rất tốt, họ liên kết với nông dân sản xuất gạo chất lượng cao hoặc mua gạo của nông dân với giá cao. Tuy nhiên, như trường hợp của Công ty CP TM&SX Viễn Phú vừa rồi làm rất tốt nhưng lại vướng chính sách, phải xuất ủy thác qua mấy doanh nghiệp của Vinafood thành ra không làm được gì cả.
Tất cả những nhà quản lý đều nhìn thấy hết những điểm yếu của nền nông nghiệp Việt Nam nhưng người ta không chịu bỏ đi lợi ích nhóm của mình, thành ra nói nhiều, nói mãi cũng vẫn vậy.
Bây giờ Việt Nam không thể nào thoát lệ thuộc vì nếu không lệ thuộc sẽ chẳng có gì để sản xuất, không máy móc, không phân bón, không thuốc trừ sâu...
PV: - Tới thời điểm này, việc gia cố đôi chân của "người khổng lồ" nông sản cho vững chắc đã cần kíp đến mức nào? Là một chuyên gia nông nghiệp, ông có đề xuất gì để "người khổng lồ" nông sản Việt phát triển thật sự vững mạnh và người nông dân không còn cảnh phải chán nản rời bỏ ruộng đồng?
GS.TS Võ Tòng Xuân: Cái này người ta đã nói nhiều rồi nhưng cái chính thì chưa thấy động đậy gì. Đầu tiên là công nghiệp cơ bản của Việt Nam chưa được chú ý, không có chương trình đầu tư phát triển nào. Thứ nữa là về giáo dục đào tạo người tài, Việt Nam chưa làm được. Cứ hô hào đổi mới nhưng giờ chỉ chăm chăm lo thi cử, làm sách giáo khoa trong khi cái cơ bản là phải thay đổi chương trình dạy thì không đả động.

Giáo sư, tiến sĩ ra nước ngoài vì sao không xuất khẩu

Tại sao không xuất khẩu giáo sư, tiến sĩ ra nước ngoài chứ? Bởi vì tình trạng dư thừa giáo sư, tiến sĩ hiện nay nên việc xuất khẩu giáo sư, tiến sĩ nếu được thì cứ xuất bởi nó vừa giải quyết được tình trạng lao động dư thừa hiện nay, lại vừa tiếp tục đào tạo năng lực cho đội ngũ này.
Tại sao bạn không đi xkld japan mà lại lựa chọn công việc bình thường trong nước.
Có thừa thì cứ xuất
Theo một số liệu thống kê năm 2013 – 2014, cả nước có khoảng 9.000 giáo sư và 24.300 tiến sĩ. Bởi số giáo sư, tiến sĩ Việt Nam "nhiều nhất Đông Nam Á" như chia sẻ của Phó Tổng thư ký liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) Phạm Bích San nên có nhiều ý kiến đề xuất rằng nên "xuất khẩu" một phần đội ngũ này ra nước ngoài học tập và làm việc.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công thương) cho rằng, hiện Việt Nam đã có đưa nhiều nông dân sang các nước vừa để hỗ trợ nông dân nước bạn kỹ thuật trồng lúa vừa nâng cao thu nhập cho bản thân. Tương tự, cũng có nhiều nhà khoa học ra nước ngoài làm việc và mang lại danh tiếng cho Việt Nam. Đặc biệt, đội ngũ giáo sư, tiến sĩ (GS, TS) Việt Nam đang thừa một cách tương đối, có một tỷ lệ lớn được đào tạo không chuẩn, thiên về lý thuyết, chất lượng dưới mức trung bình so với quốc tế.
Bởi vậy, theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam: "Ở Việt Nam cứ nói rất hay, rồng bay phượng múa về chính sách sử dụng nguồn nhân lực nhưng làm lại rất dở vì nó không hề cụ thể, cứ nói nguyên tắc, nguyên lý thế thôi. Nếu xuất khẩu được GS, TS thì cứ xuất, ai có khả năng chuyên môn mà nước ngoài sử dụng được thì nên tạo điều kiện cho họ đi. Đi làm cũng là đi học, để họ ra nước ngoài là giúp họ phát huy năng lực, tạo ra thu nhập tốt hơn, từ đó có tác động trở lại đối với các cơ quan quản lý trong nước, để cơ quan quản lý thấy rằng họ cầm vàng trong tay mà không biết là vàng, từ đó phải thay đổi chính sách".
Đồng quan điểm với ông Nam, PGS. TS Nguyễn Hữu Tri, Viện phó Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học hành chính, Trưởng khoa Quản lý hành chính Học viện Hành chính quốc gia cũng cho rằng, di chuyển nhân lực là một xu thế tất yếu trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
"Ngay trong khối EU đã có quy định rằng, mỗi cán bộ công chức làm việc trong các bộ máy nhà nước phải luân phiên có một nhiệm kỳ làm việc trong tổ chức quốc tế. Bởi thế, để các GS, TS Việt Nam tham gia vào môi trường làm việc quốc tế là điều cần thiết, tất nhiên cách làm cụ thể thế nào cần phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng. Nó cũng là điều kiện để nâng cao trình độ cán bộ khoa học Việt Nam ngang tầm khu vực và thế giới", ông nói.
Theo Viện phó Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, năng lực thực chất của các GS, TS Việt Nam chính là khó khăn lớn nhất khi họ tham gia vào môi trường quốc tế, nói cách khác, đội ngũ này khó đáp ứng được các tiêu chuẩn làm việc của quốc tế.
"Đầu tiên chính là trình độ ngoại ngữ không tốt khi cứ chạy theo một số chứng chỉ nhất định, kế đó là chuyên môn lâu nay phát triển chưa đi vào thực chất, chạy theo hư danh nhiều.
Thực tế, những năm qua, lượng GS, TS Việt Nam ra nước ngoài làm việc rất ít. Thậm chí, tôi được biết có những GS không có điều kiện đi nước ngoài, cố gắng lắm thì được vài buổi tham quan, khảo sát, tìm hiểu.
Ngay như hồi tôi còn làm Viện trưởng Viện Khoa học hành chính, việc trao đổi GS, TS với thế giới gần như không có. Chúng tôi chỉ có thể mời họ sang một số buổi, nói gì đều thông qua phiên dịch hay chỉ tổ chức một số buổi có tính chất khảo sát trong một vài tuần ở nước ngoài, nghe cán bộ nước bạn báo cáo, tham quan là chính, còn để nâng cao trình độ thì rất hạn chế. Bởi vậy, tạo ra môi trường cho cán bộ khoa học Việt Nam phát triển là rất quan trọng".
Trước nỗi lo lắng về tình trạng chảy máu chất xám, GS, TS ra nước ngoài không trở về nữa, PGS.TS Nguyễn Hữu Tri trấn an: "Tôi ở nước ngoài nhiều, thấy rằng không ai không có tình cảm với đất nước, vấn đề là các nhà quản lý trong nước có tạo điều kiện cho họ cống hiến hay không. Tháp nhu cầu của Maslow cũng đã chỉ rõ, nhiều khi những người này không phải vì vấn đề vật chất hoàn toàn mà họ cần được cống hiến, cần được xã hội thừa nhận". Do đó, theo ông Tri, nếu đưa được các GS, TS Việ Nam còn tương đối trẻ ra nước ngoài làm việc, sau 5-10 năm khi chính sách về nhà ở, công việc... ở Việt Nam đã cải thiện, họ sẽ trở về và tham gia vào việc thúc đẩy đất nước phát triển.
Trong khi đó, PGS.TS Nguyễn Văn Nam cũng không mấy lo lắng về tình trạng này bởi trước nay đã chảy máu chất xám rồi. "Cán bộ khoa học học ở nước ngoài về, thấy thu nhập quá thấp, lương nhà nước không đủ sống, họ lại không phát huy được kiến thức mình đã học vậy thì cứ để họ làm ở chỗ khác giúp họ phát huy tốt hơn, thu nhập cao hơn". Do đó, theo ông Nam, nếu Việt Nam "xuất khẩu" GS, TS mà họ trở về thì là điều tốt, còn nếu không cũng chẳng sao.
Học Hàn Quốc cách dùng người
Khi PGS. TS Nguyễn Văn Nam còn làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, hàng năm Viện được giao chỉ tiêu đào tạo 10 tiến sĩ mỗi năm, thời gian đào tạo là 4 năm. Tuy nhiên, Viện thường không đạt chỉ tiêu, có chăng được dăm bảy người.
"Có tình trạng là cứ cử nhân viên đi nước ngoài đào tạo, đến hạn về thì họ đi hết. Từ thời tôi còn làm viện trưởng, cử mấy người đi Mỹ, Úc, Hà Lan... học tập, giờ chẳng ai quay về. Khi họ đi thì viện không quản lý nữa, sau cơ quan nhà nước nào quản lý tôi cũng chẳng biết. Họ học xong, người làm ở nước ngoài, người về nước làm cho các tổ chức quốc tế chứ cũng chẳng làm cho viện", ông Nam chia sẻ.
Ông Nam cho rằng, việc sử dụng người tài thế nào không tùy thuộc vào chính sách, bởi chính sách quá chung chung, mà mang tính cá nhân nhiều hơn, nói cách khác là tùy thuộc vào thủ trưởng của từng đơn vị.
"Ai biết dùng người tài thì biết cách đối xử, biết lôi kéo và xếp việc tốt hơn cho người ta. Nhưng những ông sếp biết dùng người hiếm lắm, dăm bảy ông mới được một".
Còn PGS.TS Nguyễn Hữu Tri cho rằng, Việt Nam cần học Hàn Quốc cách dùng người. Theo đó, từ thời Tổng thống Park Chung Hee, những cán bộ đi học tập ở nước ngoài về bao giờ cũng được trả lương gấp 5 lần người đào tạo ở trong nước và bố trí vào các vị trí cần thiết. Khi có đa số những người có năng lực như vậy thì tư duy, phong cách làm việc sẽ thay đổi và thúc đẩy sự phát triển.
"Về lý thuyết, tiên tiến bao giờ cũng là thiểu số. Do đó, vai trò của người đứng đầu rất quan trọng, là điểm nút đột phá cho sự phát triển. Những người có năng lực không chấp nhận thủ trưởng yếu hơn họ hoặc không biết sử dụng họ", ông Tri đánh giá.
Hiện tại, ở vị trí Viện phó Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, PGS. TS Nguyễn Hữu Tri thường tổ chức cho các cán bộ tham gia các chương trình du lịch học tập, du lịch nghiên cứu ở nước ngoài.
"Không có nhiều tiền thì chúng tôi tổ chức các chuyến đi ngắn ngày. Ví dụ, mỗi chuyến đi Singapore, Malaysia kéo dài 5-7 ngày, chúng tôi liên hệ với một số trường đại học của họ. Trong tour sẽ có 2 ngày đến các trường này, chúng tôi tham quan thư viện, giảng đường, nghe cán bộ trường trao đổi, cung cấp thông tin... Với trường ở Thái Lan, hàng năm họ gửi một danh sách các ngành đào tạo, Viện sẽ cử cán bộ sang đó học tập khoảng 1 tháng. Khi sang đó, tự khắc họ phải nâng cao năng lực ngoại ngữ của mình vì giáo viên giảng dạy là người nước ngoài", ông cho biết.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam nhấn mạnh, quan trọng là các cơ quan trong nước phải có chính sách dùng người cho tốt, không thể cứ tùy tiện, nhận rồi để đấy, nếu không người tài sẽ bỏ đi hết.

Thị trường lao động xuất khẩu từ VN bị thu hút sang Đài Loan

Tính toán đến tháng 8.2015 thì lao động đi xuất khẩu sang Đài Loan làm việc đã có khoảng 150 nghìn người. Điều gì bên Đài Loan lại thu hút lao động Việt Nam xuất khẩu sang đây làm việc đến như vậy. Cùng tìm hiểu nhé.
Tình hình xkld nhat ban như thế nào?
Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho biết, trong 8 tháng đầu năm 2015, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 79.778 lao động (trong đó có 24.649 lao động nữ) đạt 83,98% kế hoạch năm 2015 và bằng 108,21% so với cùng kỳ năm 2014.
Tính riêng trong tháng 8/2015, có 11.255 lao động Việt Nam (trong đó có 3.590 lao động nữ) đi làm việc ở nước ngoài.
Bao gồm các thị trường chính như: Đài Loan 6.455 lao động, Nhật Bản 2.222 lao động, Hàn Quốc 1.036 lao động, Malaysia, Ả rập - Xê út, Macao và các thị trường khác.
Các con số thống kê thường kỳ của Cục Quản lý lao động ngoài nước đều cho thấy, trong vài năm gần đây, Đài Loan luôn nằm trong Top thị trường thu hút lao động Việt Nam sang làm việc nhiều nhất.
Tính lũy kế đến hết tháng 5/2015, tổng số lao động Việt Nam tại Đài Loan là 131.847 người, chiếm 25,82% tổng thị trường, tăng thêm 25.827 lượt người so với cùng kỳ 2014.
Trong nhóm nước đưa nhiều lao động vào Đài Loan gồm Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam, số lượng lao động của Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất.
Theo tính toán của BizLIVE dựa trên các con số thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, đến tháng 8/2015, đã có khoảng hơn 150.000 lao động Việt Nam hiện làm việc tại Đài Loan.
Trong đó, hơn 80% số lao động Việt Nam tại Đài Loan làm việc trong các ngành sản xuất công nghiệp và xây dựng; số còn làm việc trong ngành dịch vụ.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, Đài Loan là nước phát triển vì vậy tại các ngành nghề lao động chân tay nặng nhọc, người dân địa phương không đoài hoài đến mà chủ yếu là do các lao động nước ngoài làm việc . Đồng thời, bản thân Đài Loan không xuất khẩu lao động sang các thị trường khác.

Số lượng điều dưỡng viên Nhật Bản đang cần hiện nay là 210 người

Theo thời báo kinh tế Sài Gòn Online thì mới đây, cục quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ LĐTB&XH vừa thông báo tuyển chọn điều dưỡng viên, hộ lý sang làm việc tại Nhật Bản với số lượng là 210 người theo Hiệp định đối tác Kinh tế Việt Nam Nhật Bản (EPA) khóa 4 năm 2015.
Sáng nay 8-10, tại Hà Nội, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã tổ chức Hội thảo giới thiệu “Chương trình đưa điều dưỡng, hộ lý sang làm việc tại Nhật Bản.”
xkld nhat 2015 có gì khởi sắc so với năm ngoái 2014
Theo đó, chương trình dành riêng cho những người tốt nghiệp cao đẳng, đại học chuyên ngành điều dưỡng có nguyện vọng được sang làm việc tại Nhật với tư cách là ứng viên điều dưỡng và hộ lý. Các ứng viên còn có cơ hội tham dự kỳ thi cấp chứng chỉ quốc gia tại Nhật và ở lại làm việc lâu dài.
Cục Quản lý lao động ngoài nước là đầu mối duy nhất tiếp nhận hồ sơ đăng ký và triển khai chương trình cùng với phía Nhật Bản. Không có công ty xuất khẩu lao động hay bất kỳ cá nhân nào được cấp phép thực hiện chương trình này.
Những ứng viên được tuyển chọn sẽ được đào tạo tiếng Nhật miễn phí trong 12 tháng. Trong thời gian đào tạo, học viên sẽ được cung cấp miễn phí chỗ ở nội trú, bữa ăn và được hỗ trợ tiền sinh hoạt phí. Kết thúc khóa học, ứng viên sẽ tham gia kỳ thi chứng chỉ năng lực tiếng Nhật cấp độ N3. Những ứng viên đạt được cấp độ N3 sẽ được giới thiệu cho các bệnh viện và cơ sở chăm sóc sức khỏe của Nhật Bản.
Lương điều dưỡng tại Nhật Bản khoảng 130.000-140.000 yen/tháng (tương đương 28-30 triệu đồng/tháng), còn đối với hộ lý là 140.000-150.000 yen/tháng. Tuy nhiên, nếu thi đỗ chứng chỉ nghề và được ở lại Nhật Bản làm việc như một nhân viên chính thức thì mức lương có thể lên tới 270.000-300.000 yen/tháng (khoảng 55-60 triệu đồng/tháng).
Triển khai Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, từ năm 2012 đến nay, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã phối hợp với phía Nhật Bản tuyển chọn và đào tạo tiếng Nhật cho ba khóa điều dưỡng, hộ lý với tổng số 510 ứng viên để đưa sang Nhật Bản làm việc.
Hiện nay, đã có 290 ứng viên khóa 1 và khóa 2 đang làm việc tại các bệnh viện và cơ sở y tế tại Nhật Bản. Các ứng viên của khóa 3 đang được đào tạo trong nước và dự kiến sẽ kết thúc kỳ thi năng lực tiếng Nhật vào tháng 12 tới.