Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Người lao động tỉnh khánh hoà có thêm lựa chọn mới

Mới đây, hội đồng nhân dân của tỉnh Khánh Hoà đã thống nhất nội dung của đề án “Hỗ trợ người lao động (NLĐ) đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2015 – 2020”. Điều này đã mở ra cơ hội lớn cho nhiều lao động của tỉnh. Người lao động có thêm lựa chọn mới đó là đi xuất khẩu lao động nhật bản, đài loan, Macao,….
Nhiều lựa chọn
Để tạo kênh phong phú cho giải quyết việc làm, ngay từ đầu năm 2015, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã liên kết với các công ty chuyên đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) cấp phép. Trung bình mỗi tháng, trung tâm tiếp nhận khoảng 2 đơn đặt hàng tuyển từ 100 đến 200 lao động đi làm việc ở các nước và vùng lãnh thổ như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc...
Tiêu biểu như thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu tuyển lao động nam, nữ từ 18 đến 30 tuổi; tốt nghiệp cấp 3 trở lên, đủ sức khỏe, không có tiền án, tiền sự. Các nghề cần tuyển như: Cơ khí, lắp ráp điện tử, may mặc, đóng gói, chế biến thủy sản, nông nghiệp. Thời gian hợp đồng 3 năm và có thể gia hạn thêm 2 năm, ngày làm việc 8 giờ, 5 ngày/tuần, được bố trí ăn, ở và hưởng chế độ theo quy định của Chính phủ Nhật Bản với mức thu nhập từ 20 đến 30 triệu đồng/tháng. Chi phí xuất cảnh từ 56 đến 90 triệu đồng (tùy theo nghề). NLĐ được tư vấn lập hồ sơ dự tuyển miễn phí và được hướng dẫn làm thủ tục vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi.
Thị trường Hàn Quốc có nhu cầu tuyển dụng 100 kỹ sư và kỹ thuật viên với mức lương từ 25 đến 50 triệu đồng/tháng. Theo đó, đối với hệ kỹ sư, tuyển 50 lao động nam từ 23 đến 35 tuổi; tốt nghiệp đại học cơ khí, chế tạo máy, có kinh nghiệm 2 năm về lập trình và vận hành máy tiện, phay, bào CNC hoặc kỹ sư cao đẳng có 5 năm về lập trình và vận hành máy tiện, phay, bào CNC. Đối với hệ kỹ thuật viên, tuyển 50 lao động nam từ 23 đến 35 tuổi; tốt nghiệp cao đẳng các ngành: cơ khí đóng tàu, cơ khí chế tạo, điện tàu thủy, lắp đặt sửa chữa hệ thống đường ống, có 3 năm kinh nghiệm, chi phí xuất cảnh hơn 100 triệu đồng. Cả 2 hệ đều ưu tiên những ứng viên biết tiếng Hàn Quốc. Thời hạn làm việc 3 năm, có thể gia hạn hơn 10 năm; được bảo lãnh vợ sang Hàn Quốc sau 2 năm làm việc; chi phí ăn, ở do người sử dụng lao động chi trả, các chế độ khác thực hiện theo quy định của Luật Lao động Hàn Quốc...
Ông Hồ Viết Tiến Sơn - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh cho biết, hiện nay, thị trường xuất khẩu lao động (XKLĐ) có nhiều khởi sắc. Bằng chứng là từ đầu năm đến nay, trung tâm đã tiếp nhận nhu cầu tuyển dụng hơn 1.000 lao động địa phương đi làm việc ở các thị trường uy tín. Đây là cơ hội tốt để NLĐ trên địa bàn tỉnh tham gia tìm việc làm ổn định, thu nhập cao. Do đó, NLĐ muốn biết thêm thông tin về nhu cầu tuyển dụng thì liên hệ trực tiếp với trung tâm; đồng thời chuẩn bị cho mình những yêu cầu cần thiết như: trình độ ngoại ngữ, chuyên môn và tính kỷ luật. Bên cạnh đó, khi đăng ký tham gia XKLĐ, NLĐ chỉ nên đăng ký tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh, tránh trường hợp bị “cò mồi” gây thiệt hại về công sức, tiền của...
Tạo mọi điều kiện để xuất ngoại
Nhằm tạo điều kiện cho NLĐ trên địa bàn tỉnh tham gia XKLĐ, đặc biệt là lao động thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách, người dân tộc thiểu số, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự..., ngành LĐ-TB-XH tỉnh đã xây dựng Đề án “Hỗ trợ NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2015 - 2020”. Đề án đã được HĐND tỉnh khóa V thông qua tại kỳ họp thứ 10 vừa diễn ra vào đầu tháng 7. Đồng thời, khi thực hiện theo Nghị định 61 của Chính phủ, NLĐ là thân nhân gia đình người có công với cách mạng, hộ nghèo, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự, lao động thuộc hộ cận nghèo, dân tộc thiểu số được tỉnh hỗ trợ vay 100% chi phí; khi tham gia XKLĐ được hỗ trợ vay 100% chi phí đi làm việc ở nước ngoài (trong đó được vay nguồn kinh phí của Trung ương nếu có, phần chênh lệch còn lại được tỉnh hỗ trợ). Các đối tượng còn lại được tỉnh cho vay bằng 80% chi phí từ nguồn ngân sách tỉnh thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ bình quân 120 triệu đồng/người và số vốn này NLĐ phải hoàn trả sau 3 năm đi làm việc ở nước ngoài trở về. NLĐ tham gia XKLĐ được vay vốn phải có hộ khẩu thường trú ở Khánh Hòa từ 5 năm trở lên...
Ông Mai Xuân Trí, Phó Giám đốc Sở LĐ-TB-XH cho biết: “Với chính sách này, cánh cửa XKLĐ càng rộng mở, tạo mọi điều kiện cho NLĐ trên địa bàn tỉnh tham gia xuất ngoại. Tôi tin rằng, trong thời gian tới, hoạt động XKLĐ sẽ đạt hiệu quả cao, góp phần phát triển kinh tế địa phương, xóa đói giảm nghèo bền vững”. Được biết, thời gian tới, Sở LĐ-TB-XH sẽ tập trung chỉ đạo các trường nghề tăng cường mở lớp và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho các đối tượng tham gia XKLĐ; chú trọng đào tạo những nghề các nước có nhu cầu tuyển thường xuyên; dạy ngoại ngữ và tác phong công nghiệp cho NLĐ; thực hiện tốt việc hỗ trợ học nghề cho NLĐ; tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách, lợi ích của XKLĐ để người dân nắm bắt.

Cần phải nâng cao chất lượng lao động đi xuất khẩu nhiều hơn

Mặc dù đến giữa tháng 6 này đã đạt gần 60% mục tiêu đề ra của năm, nhưng để giữ vững các thị trường trọng điểm, bộ lao động thương binh và xã hội vẫn cần phải giám sát các doanh nghiệp xuất khẩu lao động bằng cách tăng cường kiểm tra, giám sát khâu đào tạo và tuyển nguồn lao động.
Cắt bớt chương trình
Những vụ việc lao động bị ngược đãi và bỏ trốn thời gian gần đây tại thị trường Ảrập Xêút, Malaysia có nguyên nhân từ việc đào tạo kỹ năng nghề, phong tục tập quán, luật pháp nước sở tại, cũng như ngoại ngữ chưa được thực hiện đầy đủ từ cả phía doanh nghiệp và người lao động.
Lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan.
Theo quy định của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTBXH), trước khi đi xuất khẩu, người lao động phải được đào tạo 74 tiết về nghiệp vụ, thông tin luật pháp, văn hóa... của nước sở tại và từ 1 - 3 tháng về ngoại ngữ, tùy từng thị trường. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp thời gian qua cắt giảm thời gian học nghiệp vụ, ngoại ngữ, thậm chí chỉ tổ chức 1 - 2 buổi hướng dẫn sơ lược về nghiệp vụ. “Còn về phía người lao động, phần học kỹ năng nghề thì đa số học viên học khá đầy đủ, nhưng đến học về phong tục tập quán, phương thức giao tiếp và nhất là ngoại ngữ thì người lao động lấy lý do trình độ văn hóa thấp khó tiếp thu, hoặc đã có tuổi nên không muốn học. Nhất là các thị trường dễ tính, không đòi hỏi cao như Malaysia, Ảrập Xêút thì tình trạng không nghiêm túc trong đào tạo diễn ra phổ biến. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vừa và nhỏ thì càng bỏ ngỏ chương trình này”, đại diện Hiệp hội xuất khẩu lao động cho biết.
Điều này dẫn đến hậu quả khi sang làm việc tại xứ người, trước áp lực công việc, khả năng giao tiếp hạn chế dẫn đến không hiểu công việc giữa hai bên, nên xảy ra mẫu thuẫn và bất đồng. Từ đó phát sinh ra vụ việc đáng tiếc như bị chủ ngược đãi hoặc người lao động bỏ trốn tìm nơi khác làm việc.
Thị trường Đài Loan (Trung Quốc) tạm dừng việc tiếp nhận đối với nghề khán hộ công (chăm sóc người già) và thuyền viên tàu cá gần bờ trong hơn 10 năm qua do lao động bỏ trốn. Theo thống kê, hiện vẫn còn khoảng 22.000 lao động ở thị trường này bỏ trốn chưa về nước. Từ trung tuần tháng 7/2015, phía Đài Loan đã cấp phép lại cho Việt Nam đưa lao động khán hộ công gia đình, thuyền viên tàu cá sang làm việc. Để tránh lặp lại vết xe đổ, Cục Quản lý lao động ngoài nước yêu cầu các đơn vị tham gia xuất khẩu lao động vào thị trường Đài Loan với hai ngành nghề trên phải tăng cường công tác đào tạo cả nghiệp vụ lẫn ngoại ngữ. Theo đó, thời gian bồi dưỡng nghiệp vụ tối thiểu là 90 giờ, thời gian bồi dưỡng tiếng Hoa là 200 giờ, thời gian bồi dưỡng kiến thức là 100 giờ. Như vậy, thời gian học, đào tạo nghiệp vụ tăng hơn so với quy định thông thường là khoảng 20%, trong đó nội dung yêu cầu phải để người lao động hiểu rõ công việc, xử lý tình huống, khả năng giao tiếp với chủ sử dụng lao động.
“Nếu thực hiện đúng quy trình đào tạo, dự kiến thời gian tới tổng số lao động Việt Nam sang Đài Loan sẽ gia tăng nhanh hơn trong thời gian tới. Hiện lao động đi Đài Loan chiếm 60% tổng số lao động đi xuất khẩu của Việt Nam”, ông Tống Hải Nam, Phó Cục trưởng Cục quản lý Lao động ngoài nước cho biết.
Xử lý nghiêm vi phạm
Để giữ được thị trường trọng điểm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đề nghị Bộ LĐTBXH cần tăng cường kiểm tra việc tuyển nguồn và đào tạo. “Đơn cử như với thị trường Đài Loan, dù đã mở cửa trở lại cho nghề khán hộ công gia đình với mức lương khá cao, nhưng đòi hỏi phải có nghiệp vụ tương ứng. Do công việc là chăm sóc người già có bệnh nên việc đào tạo người lao động không đơn thuần là quét dọn như giúp việc gia đình, mà phải có kiến thức như những y tá, hộ lý. Bộ LĐTBXH cần kiểm soát, giám sát quy trình đào tạo của doanh nghiệp”, bà Nguyễn Thị Kim Thanh, đại diện doanh nghiệp Techsimex đề xuất.
Các doanh nghiệp cho rằng, Bộ LĐTBXH nên kết hợp với Hiệp hội xuất khẩu lao động để có quy chế và khung đào tạo từng thị trường, đảm bảo quyền lợi người lao động và của doanh nghiệp.
Về vấn đề này, bà Phạm Thị Hải Chuyền, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH khẳng định: Bộ sẽ xử lý nghiêm đơn vị vi phạm trong việc đào tạo và tuyển nguồn. Đối với thị trường trọng điểm có nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động, sẽ có đầu mối thống nhất để cùng giám sát khung đào tạo phù hợp. Cục Quản lý lao động ngoài nước tăng cường kiểm tra và yêu cầu doanh nghiệp nghiêm túc trong đào tạo, minh bạch các khoản phí trước và sau khi xuất cảnh.

Xuân Minh - Thái Hà – Báo tin tức

Nhiều gia đình tố công ty Việt nhật lừa xuất khẩu lao động

Hàng chục gia đình ở Phú Thọ đang nghi ngờ một công ty xuất khẩu lao động lừa họ trong việc đi xuất khẩu lao động sang Canada. Do tin lời nói của giám đốc công ty, nhiều gia đình đã nộp chi phí làm thủ tục xuất khẩu lao động và họ hứa đến tháng 4/2014 sẽ đưa người lao động xuất khẩu sang Canada, nhưng đến nay mà vẫn chưa thấy tiến triển gì.
Mặc dù từ 2010 đến nay, Cục Quản lý lao động ngoài nước không cấp phép cho bất kỳ công ty nào đưa người đi lao động ở Canada, nhưng Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển dịch vụ Việt Nhật vẫn thu tiền của hàng loạt người dân. Hậu quả là nhiều người “chết đứng” và mang nợ vào thân…
Đã nghèo còn bị lừa
Lặn lội từ vùng quê nghèo xã Lang Sơn, huyện Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ) xuống Báo Gia đình & Xã hội, bà Đặng Thị Thanh (SN 1969) tố cáo Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển dịch vụ Việt Nhật (Công ty Việt Nhật) đã có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của bà.
Theo trình bày của bà Thanh, khoảng tháng 8/2013, khi con trai bà là Đỗ Xuân Hoàng (SN 1992) xuất ngũ về quê thì gia đình có nhu cầu cho con đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài.
“Qua giới thiệu, bà Ngô Thảo Hoa, là Giám đốc Công ty Việt Nhật có gặp tôi mời đưa con đi làm việc ở Bang Ontario, Canada. Chị ta giới thiệu công ty mình làm ăn uy tín nhiều năm tại thị trường này, lương công nhân trả cao. Chí phí làm thủ tục xuất khẩu lao động là 350 triệu đồng, yêu cầu gia đình đặt cọc trước 84 triệu đồng. Khi làm xong mọi thủ tục và trước khi con tôi xuất cảnh, gia đình phải đóng đủ 350 triệu đồng. Chị Hoa hứa chắc chắn, chậm nhất đến tháng 4/2014, con tôi sẽ được đi xuất khẩu lao động sang Canada”, bà Thanh cho biết.
Bà Thanh kể thêm: "Vì tin tưởng vào những lời hứa của chị Hoa nên gia đình đã đi cắm sổ đỏ để có tiền đặt cọc. “Ngày 14/1/2014, tôi mang số tiền 84 triệu đồng đến trụ sở Công ty Việt Nhật ở Khu đô thị Mễ Trì Thượng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để nộp. Ngoài ra, tôi phải đóng thêm 11,5 triệu đồng tiền học tiếng Anh cho con theo yêu cầu của chị Hoa. Tuy nhiên, từ đó đến nay, gia đình tôi mòn mỏi chờ đợi mà chẳng thấy phía công ty thông báo về việc đi lao động ở Canada như thế nào cả”.
Theo bà Thanh, sau hơn 1 năm chờ đợi không có kết quả, gia đình đã nhiều lần gọi điện nhưng chị Hoa từ chối nghe máy. Vì quá lo lắng khoản tiền rất lớn mà đến nay không biết như thế nào, chị Thanh đã hơn 10 lần xuống công ty để gặp chị Hoa nhưng đều bị tránh mặt, không tiếp. Khi bà Thanh đòi lại tiền đã đặt cọc thì chị Hoa lấy đủ mọi lý do để không trả.
“Mới đây, chị Minh, Kế toán của công ty bảo, nếu muốn lấy lại tiền đặt cọc thì công ty chỉ trả lại hơn 30 triệu đồng, khoản tiền còn lại trừ vào chi phí khác”, bà Thanh cho biết thêm.
Theo bà Thanh, vì gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nên bà đã cầm cố sổ đỏ để vay ngân hàng 150 triệu đồng cho con đi XKLĐ. “Đến nay, con tôi vẫn loanh quanh ở nhà, còn khoản tiền đã vay ngân hàng thì chưa biết lấy đâu để trả. Nhà hoàn cảnh khó khăn, hi vọng cho con đi XKLĐ kiếm thêm thu nhập, ai ngờ nợ nần thêm chồng chất”.
“Báo chí làm việc thì lên gặp Tổng cục 1?”
Cùng chung hoàn cảnh với gia đình bà Thanh, anh Trần Minh Việt, trú tại xóm 6, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc (tỉnh Nam Định), cũng “sống dở, chết dở” vì tin vào Công ty Việt Nhật khi đã đặt cọc tiền để đi XKLĐ.
Anh Việt cho biết, vì tin tưởng nên đã nộp 14 triệu đồng học ngoại ngữ, 84 triệu đồng đặt cọc và 50 triệu đồng bảo lãnh từ năm 2013. Chờ đợi quá lâu, anh Việt có gọi điện và đến tận công ty hỏi thì cũng chỉ nhận được câu trả lời “hãy chờ”.
“Lý do mà công ty đưa ra là do chính trị bên Canada bất ổn, đơn hàng lao động cho ngành nông nghiệp chưa có. Nếu anh muốn chuyển sang ngành xây dựng sẽ nhanh được đi hơn và phải nộp thêm 2000 USD.
Công ty bảo chuyển ngành phải nộp thêm 2000 USD, chúng tôi đồng ý ngay, kể cả là 5000 USD nhưng phải làm giấy cam đoan thì Công ty không đồng ý. Nguyện vọng của tôi chỉ muốn được đi XKLĐ để kiếm tiền trả khoản nợ mà mình đã vay, cũng như nuôi hai đứa con đang ăn học”, anh Việt trình bày.
Theo bà Đặng Thị Thanh, trong danh sách hơn 20 người học ngoại ngữ cùng con trai bà từ năm 2013 đến nay, chưa ai trong số này được đưa đi sang Canada như Công ty Việt Nhật đã cam kết. “Đến nay, có người đã nộp 130 triệu nhưng cũng không lấy được tiền và chúng tôi chưa được phía Công ty ký bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến việc XKLĐ. Chúng tôi thật sự lo lắng về khoản tiền đã nộp vào công ty và cách trả lời vòng vo của bà Hoa”, bà Thanh bức xúc.

Để làm rõ thông tin hai chiều mà bạn đọc phản ánh, phóng viên Báo Gia đình & Xã hội đã liên lạc với bà Ngô Thảo Hoa, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Việt Nhật thì bà Hoa tỏ ra thái độ thách thức.
“Các anh muốn làm thế nào thì làm. Còn các anh thông tin không đúng sự thật thì lên làm việc ở Tổng cục 1 nhé”, bà Hoa trả lời.
Trả lời Báo GĐ&XH, đại diện Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, từ năm 2010 đến nay, thị trường lao động ở Canada không được cấp phép bất kỳ đơn hàng nào.
“Ngoài ra, Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển dịch vụ Việt Nhật không có trong danh sách những công ty được cấp phép đưa người lao động ra nước ngoài. Nếu có hiện tượng như báo phản ánh, người lao động nên trình báo lên cơ quan công an kinh tế”, đại diện Cục Quản lý Lao động ngoài nước cho biết.
Phùng Bình/Báo Gia đình & Xã hội

Bạn có biết nguy hiểm từ xuất khẩu lao động chui

Do chi phí thấp, lại tin rằng có đãi ngộ tương đương với đi xuất khẩu lao động chính thức, nhiều người đã đi xuất khẩu lao động “chui”. Để rồi sau một thời gian ngắn, họ đã nhận ra rằng quyết định của bản thân lúc ấy vội vã đến nhường nào, giờ đây, có quá nhiều rắc rối xảy ra với họ mà khó có thể giải quyết ổn thoả.
Xu hướng người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc qua kênh không hợp pháp gia tăng, tiềm ẩn nhiều rủi ro bị ngược đãi, bóc lột.
Cần tăng cường khung thể chế, bao gồm sửa đổi quy định của pháp luật để hỗ trợ tốt hơn người lao động (NLĐ) đi làm việc ở nước ngoài qua các kênh không chính thức là một trong 7 khuyến nghị đối với Việt Nam vừa được dự án tam giác ILO GMS của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra.
Đi hợp pháp rồi bỏ trốn
Theo số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Dolab), 5 năm qua, bình quân mỗi năm cả nước có 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng cung ứng của doanh nghiệp xuất khẩu lao động (XKLĐ, kênh chính thức). Riêng năm 2014, số lao động XKLĐ qua kênh này đạt kỷ lục 106.000 người. Trong 6 tháng đầu năm 2015, có 56.173 lao động xuất ngoại và dự báo cả năm vượt mốc 110.000 người.
Các báo cáo của Dolab cũng cho biết hiện có khoảng 500.000 lao động đi qua kênh chính thức làm việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó trên 20 thị trường mà Việt Nam đã ký ghi nhớ hoặc có thỏa thuận song phương về hợp tác lao động. Dù vậy, một bộ phận không nhỏ trong số này sau khi hết hạn hợp đồng đã không về nước mà ở lại bất hợp pháp.
Tại Đài Loan, đến tháng 6-2015, có khoảng 15.000 lao động bất hợp pháp của Việt Nam, nhiều nhất so với lao động các nước. Tại Hàn Quốc, con số này là 26.340 người. Ước tính đến nay có trên 50.000 lao động bất hợp pháp của Việt Nam đang ở nước ngoài sau khi được đưa đi qua kênh chính thức. Áp lực cho công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài đối với nhóm đối tượng này là không nhỏ. Theo Hiệp hội XKLĐ Việt Nam, vì lo ngại cảnh sát bắt giữ nên nhiều người dù bị bị ngược đãi vẫn không dám phản ứng, cầu cứu để được bảo vệ.
“Đi chui” gia tăng
Dựa trên các kết quả điều tra, ILO thông tin “bản đồ” XKLĐ của Việt Nam hiện không chỉ giới hạn trong phạm vi 40 quốc gia và vùng lãnh thổ mà đã tăng lên con số 60. Thị trường XKLĐ Việt Nam mở rộng bởi làn sóng di cư theo hình thức cá nhân hoặc qua các kênh không chính thức. Trong đó, nhiều lao động di cư không chính thức sang các nước châu Phi (chủ yếu là Angola, 1.337 người) và một số quốc gia châu Âu. Đến nay, có khoảng 18.000 lao động bất hợp pháp từ Việt Nam sang các nước thuộc Liên minh châu Âu thông qua các đường dây trái phép.
Tại khu vực ASEAN, lao động Việt Nam sang Thái Lan trái phép có chiều hướng tăng với 6.108 lao động đang làm việc bất hợp pháp ở nhiều lĩnh vực như bồi bàn, bán hàng, may mặc. Hành trình di cư của NLĐ rất khó kiểm soát, thường đi bộ qua cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) sang Lào, sau đó đến cửa khẩu Mukdahan để vào Thái Lan. Theo ông Max Tunon, điều phối viên dự án tam giác ILO GMS, ở Thái Lan hay những nước mà Việt Nam chưa có quan hệ hợp tác lao động, việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ gặp nhiều khó khăn.
Trên thực tế, không chỉ tốn một khoản tiền môi giới quá cao, NLĐ ra nước ngoài bất hợp pháp thường bị “đem con bỏ chợ”, không được bố trí việc làm, thu nhập như cam kết. Ở Ả Rập Saudi, nơi có khoảng 5.000 lao động giúp việc gia đình Việt Nam, tình trạng lao động bị ngược đãi thường xuyên xảy ra. Tại Nga, do không có giấy tờ hợp pháp, NLĐ bị đưa vào các “xưởng may đen”, bị bóc lột thậm tệ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang bị sức ép lớn trước tình trạng di cư bất hợp pháp nhưng gần như không kiểm soát được kênh không chính thức này. Trước tình hình trên, ILO khuyến cáo Việt Nam cần tăng cường đối thoại, đàm phán để ký ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác lao động với các nước để hợp pháp hóa cho NLĐ, đồng thời cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, có cơ chế phối hợp để có thể bảo vệ quyền lợi cho họ.
Theo Người Lao Động

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

Xuất khẩu lao động tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm 2015

Theo thống kê nhận được từ cục quản lý lao động ngoài nước, trong 6 tháng đầu năm 2015, số lượng xuất khẩu lao động ra nước ngoài tăng mạnh, cụ thể có 56.173 lao động đi xuất khẩu sang nước ngoài, đạt 59,13% kế hoạch đề ra năm 2015.
Thống kê chỉ ra, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 56.173 lao động (16.942 lao động nữ) đạt 59,13% kế hoạch năm 2015 và bằng 101,75% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính riêng trong tháng 6, số lượng lao động đi xuất khẩu tăng mạnh nhất kể từ đầu năm đến nay với 11.777 lao động (3.619 lao động nữ). Trong đó, Đài Loan (Trung Quốc): 7.505 lao động, Nhật Bản: 2.324 lao động Hàn Quốc: 654 lao động Malaysia: 582 lao động, Ả rập - Xê út: 377 lao động, Qatar: 112 lao động…
Theo đó, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Ả rập Saudi… vẫn là những thị trường thu hút lao động Việt Nam đi xuất khẩu mạnh nhất.
Hiện nay, có nhiều cơ hội thuận lợi cho lao động Việt Nam xuất khẩu bởi những động thái tích cực từ thị trường lao động các nước. Đài Loan mới đây tuyên bố sẽ tăng mức lương cơ bản và điều chỉnh mức tham gia bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế của người lao động. Thị trường Thái Lan cũng cấp phép cho lao động Việt Nam nhằm hạn chế lao động “chui”.
Chính phủ Hàn Quốc mới đây đã triển khai chương trình đăng ký tự nguyện về nước dành cho người nước ngoài cư trú bất hợp pháp. Theo đó họ sẽ được miễn đóng tiền phạt, không bị tạm giam. Đây sẽ là cơ hội lớn đối với 26.000 lao động Việt Nam đang cứ trú bất hợp pháp trên đất nước này.
Trước đó, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã kí kết với  Bộ Kinh tế và Năng lượng Cộng hòa Liên bang Đức để thực hiện dự án thí điểm tuyển chọn ứng viên điều dưỡng Việt Nam, đưa sang học tập và làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức trong lĩnh vực chăm sóc người già từ năm 2012.
Trong tháng 5 vừa qua Cục Quản lý lao động ngoài nước đã phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam và cơ quan đào tạo ARC ACADEMY tổ chức Lễ tiễn 151 ứng viên điều dưỡng, hộ lý khóa 2 đi làm việc tại Nhật Bản.
Báo Một thế giới

Cẩn trọng với” xuất khẩu lao đông chi phí thấp, lương cao”

Tin vào những lời nói hấp dẫn từ những trung tâm tư vấn xuất khẩu lao động đi nước ngoài với chi phí thấp mà chế độ đãi ngộ vô cùng cao. Nhiều người đã phải “tiền mất tật mang”, bị lừa hàng chục triệu đồng,….do không chịu tìm hiểu kỹ thông tin và các thủ tục.
Bị lừa hàng ngàn USD vì không nắm được thủ tục
Những ngày qua, hàng chục NLĐ đăng ký xuất khẩu lao động (XKLĐ) sang Nhật với Cty TNHH Tư vấn quản lý phát triển Việt Nhật Vinh Ron (quận Bình Tân, TPHCM) đã gửi đơn đi khắp nơi kêu cứu vì cho rằng mình đã bị Cty lừa từ 1.500-3.000USD, thu toàn bộ văn bằng, giấy tờ gốc, quá thời hạn như cam kết ban đầu nhưng Cty vẫn chưa đưa NLĐ đi Nhật. Nguyên nhân là do Cty này không có giấy phép XKLĐ.
>>> Tư vấn xuất khẩu lao động Nhật Bản 2015 chuyên nghiệp
Chị Phương (quê Tây Ninh) trình bày, chị được người môi giới tên Tuyến dẫn đến Cty Vinh Ron để XKLĐ sang Nhật. Chị được Cty tư vấn làm hồ sơ, nộp bằng tốt nghiệp THPT và yêu cầu đóng 8.500USD, với giải thích, Cty nhận 7.500 USD, còn 1.000USD của người môi giới. Sau đó, chị đã đóng 1.500USD, 6 triệu tiền học tiếng Nhật và nhận được giấy nhận tiền ghi rõ khoản tiền trên là phí tư vấn và giới thiệu việc làm tại Nhật Bản, chi phí đào tạo tiếng Nhật, chi phí làm visa và thủ tục nhập cảnh tại nước sở tại, chi phí làm hồ sơ.
Cty Vinh Ron cam kết, “sau thời gian học chương trình giáo dục tiếng Nhật và nghề (trong vòng 6 tháng), nếu NLĐ không có được visa nhập cảnh vào Nhật Bản như phía Cty đã phổ biến thì Cty sẽ hoàn lại số tiền trên”. Tuy nhiên, từ đó đến nay đã gần 1 năm nhưng Cty không hề có động tĩnh gì về việc đưa NLĐ đi Nhật làm việc.
Cho rằng Cty lừa mình, NLĐ tố cáo sự việc lên báo chí, cơ quan công an thì bà Nguyễn Thị Đoan Phương - người đại diện theo pháp luật của Cty Vinh Ron - đã cấm NLĐ đến lớp học, buộc rời khỏi kí túc xá, trong khi tiền bạc, giấy tờ đã thu của NLĐ thì không trả. “Số tiền mà tôi đóng cho Cty là tiền đi vay nóng, hoặc gia đình phải cầm cố tài sản đất ruộng mới có. Anh chị em ở đây đều từ các tỉnh Bến Tre, Tây Ninh, Củ Chi (TPHCM)…, hoàn cảnh ai cũng cơ cực, khó khăn, muốn đi Nhật làm việc để mong thoát cảnh nghèo nhưng bây giờ mang nợ thêm”, anh Danh - người đóng cho Cty 2.500USD - cho biết.
Theo giám đốc 1 Cty chuyên XKLĐ sang Nhật, việc đưa NLĐ sang Nhật làm việc đều có quy trình, NLĐ nên chủ động tìm hiểu kỹ về các DN, thông tin có đầy đủ trên mạng, không nên thông qua “cò”, đặc biệt, Cty làm đúng trình tự không bao giờ yêu cầu NLĐ nộp hàng ngàn USD khi chưa được DN bên Nhật tuyển dụng, chủ DN bên Nhật ký HĐ có nói rõ mức lương, nơi làm việc, công việc….
Đừng thấy không phải mất phí mà ham!
Đó là lời cảnh báo cho những nữ LĐ có ý định đi XKLĐ sang các nước Trung Đông, đặc biệt là Saudi Arabia. Bị nợ lương, đánh đập, bị sang tay, muốn về nước phải đền tiền… là hoàn cảnh mà nhiều nữ giúp việc gia đình làm việc ở Saudi Arabia đang phải gánh chịu.
Theo lãnh đạo một Cty XKLĐ, nguyên nhân mà thị trường Ả Rập Saudi hút nhiều LĐ, đặc biệt là LĐ nữ, vì thị trường này khá dễ tính trong việc tuyển người về độ tuổi, trình độ…, NLĐ không phải bỏ ra chi phí mà chi phí này được phía chủ sử dụng LĐ ở Saudi Arabia bỏ ra nên khi muốn về nước thì phải… đền bù. Nhiều LĐ nữ không chịu nổi cảnh bị đánh đập, làm việc liên tục, muốn về nước thì phải nhờ gia đình vay nóng, cầm cố nhà cửa để được về nước, trong khi lương chỉ tầm 6-7 triệu đồng/tháng.
“Hơn nữa, trước khi sang Saudi Arabia, người giúp việc gia đình thường được cam kết làm việc 8 giờ/ngày, đảm bảo quyền nghỉ phép, nghỉ ốm, tăng lương ngoài giờ làm việc… tương tự Luật LĐ ở Việt Nam, nhưng ở Saudi Arabia, giúp việc gia đình là loại hình vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra, LĐ nước ngoài sẽ không được phép rời khỏi Saudi Arabia nếu như không có sự đồng ý của chủ sử dụng LĐ”, vị giám đốc này cho biết.
Thực tế, giúp việc trong các gia đình đạo Hồi không đơn giản. Bởi, phong tục tập quán của đạo Hồi không giống với Châu Á, có rất nhiều quy định nghiêm ngặt, khắt khe, giờ giấc làm việc không có. Các gia đình hay tổ chức tiệc tùng và có cháu nhỏ, người giúp việc thường phải thức phục vụ, làm việc rất khuya…
“Nếu không biết trước đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán của Saudi Arabia, NLĐ sẽ rất dễ bị chới với, đặc biệt là có cảm giác bị lừa vì trước khi đi, họ thường được môi giới là “việc nhẹ, lương cao, đi không mất phí”… Những LĐ nữ giúp việc gia đình thường lớn tuổi, không biết ngoại ngữ nên càng dễ bị tổn thương hơn”, vị giám đốc này chia sẻ.

Tháo gỡ khó khăn khi xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp

Mới đây, bộ lao động thương binh và xã hội đã tổ chức một cuộc đối thoại trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu lao động nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình xuất khẩu lao động từ trong nước ra quốc tế để ổn định lại công tác xuất khẩu lao động từ đây đến cuối năm.
Theo thông tin chính thức thì vào sáng 18 tháng 7 năm 2015, tại Hà Nội, Bộ Lao động Thương binh & Xã hội tổ chức cuộc đối thoại trực tiếp giữa cơ quan quản lý nhà nước và hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu lao động (XKLĐ) nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc để ổn định công tác xuất khẩu lao động thời gian tới.
Hiện, cả nước đã có trên 56.000 lao động xuất cảnh, đạt khoảng 60% kế hoạch năm. Trong đó, Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản đang là hai thị trường ổn định và trọng điểm. Các doanh nghiệp XKLĐ cũng đang hướng tới việc mở rộng về số lượng và chất lượng lao động tới một loạt thị trường khác như: Liên bang Nga, Algeria, Macao (Trung Quốc), Saudi Arabia.
Song song đó, Bộ LĐTBXH và các doanh nghiệp XKLĐ đều xác định thời gian tới tiếp tục củng cố các thị trường quen thuộc, truyền thống như: Malaysia, Hàn Quốc,…
Tại cuộc đối thoại, Bộ LĐTBXH đề nghị các doanh nghiệp phản ánh cụ thể, chính xác những khó khăn vướng mắc hiện nay và kiến nghị để sửa đổi những vẫn đề còn tồn tại, nhằm đảm bảo ổn định, phát triển thị trường lao động ngoài nước thời gian tới.

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

Lo ngại từ các đơn vị xuất khẩu lao động hiện nay

Thị trường xuất khẩu lao động đang là món ngon béo bở cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động (DNXKLĐ). Thế nên, việc tranh giành, hạ chi phí hợp đồng giữa các DNXKLĐ thường xuyên xảy ra.
Giữa tháng 7 vừa qua, bộ lao động thương binh xã hội (LĐTBXH) đã có buổi họp bàn với hàng trăm DNXKLĐ trong cả nước nhằm chấn chỉnh lại các hoạt động đưa lao động trong nước đi làm việc tại nước ngoài.
Theo ông Tống Hải Nam - Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTBXH), thì trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay, tổng số người lao động đi xuất khẩu lao động sang nước khác đạt gần 450.000 người. Và chỉ riêng trong năm 2014 thì cả nước đã có 106.000 người xuất khẩu lao động, vượt 22,8% so với kế hoạch được giao. Trong 6 tháng đầu năm 2015, các doanh nghiệp đã đưa được hơn 56.000 người đi xuất khẩu lao động, bằng 102% so với cùng thời điểm năm 2014 và đạt gần 60% so với kế hoạch năm 2015.
Tính đến thời điểm này thì Đài Loan và Nhật bản vẫn là 2 thị trường ổn định và trọng điểm nhất của các DNXKLĐ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đang mở rộng và phát triển thị trường tới nhiều nơi khác trên thế giới như: Nga, Đài Loan, Macao (Trung Quốc), Saudi Arabia, Nhật bản. Tuy vậy, theo ông Nam, dù nỗ lực mở rộng thị trường luôn được chú trọng, nhưng việc này phải được tiến hành đồng thời với việc giữ vững sự ổn định của các thị trường trọng điểm và củng cố các thị trường quen thuộc như xuất khẩu lao động Nhật bản, Đài Loan(Trung Quốc), Hàn Quốc, …
Nên rà soát kỹ càng và có biện pháp cứng rắn.
Theo thông tin từ cục quản lý lao động ngoài nước, tính đến hết tháng 6 năm nay, số doanh nghiệp(DN) được cấp phép xuất khẩu lao động là 228. Nhưng số lao động đi làm ở nước ngoài và công tác xuất khẩu lao động hiện tại vẫn tồn tại nhiều vấn đề phát sinh mà chưa có biện pháp giải quyết cụ thể.
Theo đó, về phía doanh nghiệp, đa số họ phản ánh tình trạng khó khăn trong tao nguồn vốn và tuyển dụng, thậm chí có tình trạng doanh nghiệp phải mua lại nguồn cung ứng với gia cao từ môi giới do khó khăn trong việc tuyển dụng trực tiếp, hoặc tuyển dụng và đào tạo không tương thích với môi trường làm việc ở nước ngoài của lao động. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp cũng phản ánh tình trạng giành giật đơn hàng của nhau với cách giảm chi phí nhằm cướp hợp đồng. Biện pháp này lại càng khiến cho thị trường xuất khẩu lao động càng nhốn nháo, bất ổn định hơn.
Trong khi đó, việc hạ chi phí hết mức để giành đơn hàng chỉ có lợi cho duy nhất đối tác nước ngoài, mọi rủi ro khi xuất cảnh, gánh nặng chi phí lại “đè” lên đối tượng khó khăn nhất là người lao động.




DN cũng “kể” về các khó khăn khiến ngay cả các thị trường lớn và truyền thống về XKLĐ của ta chưa có sự bứt phá rõ rệt và thiếu ổn định. Trong đó, nguyên nhân sâu xa một phần bởi chất lượng nguồn cung ứng lao động của VN không ổn định, chất lượng không cao và ngày càng chịu sự cạnh tranh gay gắt của các nước trong khu vực. Việc phát triển các thị trường mới cũng luôn trong tình trạng… căng thẳng bởi ý thức chấp hành pháp luật của người lao động kém, một bộ phận đánh nhau, bỏ trốn khiến các đối tác mất niềm tin, khó gia hạn chương trình ký kết hoặc thậm chí chấp nhận bồi thường để chấm dứt sớm hợp đồng.
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền lưu ý, Cục Quản lý lao động ngoài nước và các DN phải thực hiện quyết liệt các công việc để khắc phục những tồn tại. Với hơn 200 DN dịch vụ đưa người lao động đi làm việc tại thị trường 40 nước trên thế giới, bộ trưởng nhấn mạnh cục phải rà soát và chấn chỉnh hoạt động của các DN và có biện pháp cứng rắn đối với những DN không đủ năng lực.
Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền, công tác tuyển chọn, đào tạo, công tác quản lý, bảo vệ lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài phải được thực hiện nghiêm trong thời gian tới.
Cũng theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, tính đến hết tháng 6.2015, số DN được cấp phép XKLĐ là 228. Song số người lao động đi làm việc ở nước ngoài và công tác XKLĐ hiện vẫn tồn tại nhiều vấn đề phát sinh. Về phía DN, đa số phản ánh tình trạng khó khăn trong tạo nguồn vốn và tuyển dụng, thậm chí có tình trạng DN phải “mua lại” nguồn cung ứng với giá cao do không thể tự tuyển dụng trực tiếp, hoặc tuyển dụng và đào tạo không tương thích. Ngoài ra, DN cũng nêu tình trạng giành giật đơn hàng của nhau với chi phí cực thấp nhằm “cướp” hợp đồng. Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh này khiến thị trường XKLĐ càng nhốn nháo, bất ổn định. Trong khi đó, việc giảm giá hết cỡ để giành đơn hàng chỉ có lợi cho duy nhất đối tác nước ngoài, mọi rủi ro khi xuất cảnh, gánh nặng chi phí lại “đè” lên đối tượng khó khăn nhất là người lao động.




Bộ LĐTBXH đang nỗ lực mở rộng thị trường XKLĐ bằng nhiều chương trình hợp tác, liên kết.  Ảnh: DOLAP
DN cũng “kể” về các khó khăn khiến ngay cả các thị trường lớn và truyền thống về XKLĐ của ta chưa có sự bứt phá rõ rệt và thiếu ổn định. Trong đó, nguyên nhân sâu xa một phần bởi chất lượng nguồn cung ứng lao động của VN không ổn định, chất lượng không cao và ngày càng chịu sự cạnh tranh gay gắt của các nước trong khu vực. Việc phát triển các thị trường mới cũng luôn trong tình trạng… căng thẳng bởi ý thức chấp hành pháp luật của người lao động kém, một bộ phận đánh nhau, bỏ trốn khiến các đối tác mất niềm tin, khó gia hạn chương trình ký kết hoặc thậm chí chấp nhận bồi thường để chấm dứt sớm hợp đồng.
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền lưu ý, Cục Quản lý lao động ngoài nước và các DN phải thực hiện quyết liệt các công việc để khắc phục những tồn tại. Với hơn 200 DN dịch vụ đưa người lao động đi làm việc tại thị trường 40 nước trên thế giới, bộ trưởng nhấn mạnh cục phải rà soát và chấn chỉnh hoạt động của các DN và có biện pháp cứng rắn đối với những DN không đủ năng lực.
Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền, công tác tuyển chọn, đào tạo, công tác quản lý, bảo vệ lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài phải được thực hiện nghiêm trong thời gian tới.

Cần xem lại việc cạnh tranh không lành mạnh trong xuất khẩu lao động

Thị trường xuất khẩu lao động đang là món mồi béo bở cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên không thể tránh khỏi việc cạnh tranh với nhau giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, đôi lúc việc tranh giành đó lại sử dụng các biện pháp không lành mạnh, các cơ quan chức năng lại khó quản lý khiến cho việc này càng ngày càng mất kiểm soát hơn.
Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam có khoảng 500 nghìn lao động đi xuất khẩu lao động tại 40 quốc gia và các vùng lãnh thổ. Từ năm 2010 đến nay, tổng số lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài là 450 nghìn người. Trong đó, số lao động do các doanh nghiệp dịch vụ đưa đi chiếm gần 90% tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài.
Năm 2015, được dự báo là năm sẽ có số lao động đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài cao tương đương hoặc hơn năm 2014 (khoảng 106 nghìn người). Riêng trong sáu tháng đầu năm, có hơn 56 nghìn người đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài, đạt gần 60% so kế hoạch năm. Tuy nhiên, tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh nhằm giành giật đơn hàng, nguồn tuyển dụng giữa các doanh nghiệp đang diễn ra gay gắt và rất khó quản lý.
Bất ổn tại nhiều thị trường
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, hiện có 231 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó, có 17 doanh nghiệp nhà nước, 166 công ty cổ phần và 48 công ty trách nhiệm hữu hạn. Thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB và XH) đã thu hồi giấy phép của 44 doanh nghiệp do hoạt động không có hiệu quả, doanh nghiệp chấm dứt hoạt động hoặc vi phạm quy định trong lĩnh vực xuất khẩu lao động (XKLĐ).
Ông Tống Hải Nam - Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước cho biết: Mặc dù thị trường XKLĐ có những khởi sắc, nhưng thực tế hoạt động đưa lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài còn nhiều hạn chế, vướng mắc, dẫn đến nguồn lao động, công tác đào tạo tay nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài chưa đạt chất lượng, hiệu quả cao như mong muốn. Cùng với đó là tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp về nguồn lao động, tăng chi phí xuất cảnh của lao động để giành đối tác, đơn hàng... làm cho thị trường không ổn định và chỉ có lợi cho đối tác nước ngoài, đồng thời người lao động sẽ chịu nhiều rủi ro khi xuất cảnh đi làm việc.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp sau khi được cấp phép hoạt động thì phó mặc cho các văn phòng đại diện, trung tâm đào tạo, địa điểm kinh doanh thực hiện công tác tuyển chọn, đào tạo, thu tiền, ký hợp đồng với người lao động. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không kiểm soát được chất lượng, số lượng lao động đưa đi, đến khi có vụ việc xảy ra với lao động và được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết thì doanh nghiệp lúng túng, có trường hợp còn đùn đẩy trách nhiệm.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy hầu hết các doanh nghiệp tuyển chọn lao động còn nhiều sai phạm, như quảng cáo vượt quá sự thật; tuyển lao động, đào tạo nhưng không tổ chức đưa đi mà chuyển nguồn lao động cho doanh nghiệp khác có hợp đồng tổ chức đưa đi... Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến mức phí người lao động phải đóng cao hơn. Một số doanh nghiệp tư vấn, tuyển chọn quá nhiều lao động so với nhu cầu, nên tiến độ đưa đi chậm; tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp cùng tuyển chọn trong một thị trường tạo nên nhiều bất ổn.
Việt Nam đang là nước cung ứng lao động lớn thứ hai vào Đài Loan (Trung Quốc), số lượng lao động gia tăng mạnh trong năm năm trở lại đây, hiện có khoảng 160 nghìn người làm việc tại Đài Loan. Riêng thị trường này, đã có 75 doanh nghiệp tham gia đưa lao động đi làm việc. Tuy là thị trường lao động truyền thống, nhưng đây cũng là thị trường còn nhiều vấn đề bất cập. Tình trạng thu phí sai quy định, chi trả tiền môi giới cao để giành đơn hàng vẫn tồn tại, mặc dù từ năm 2012, Bộ LĐ-TB và XH có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện lộ trình giảm chi phí của người lao động khi đi làm việc tại Đài Loan, đưa chi phí về với thực tế thị trường (từ tháng 2-2014, mức phí đối với người lao động giảm còn 4.000 USD đối với lao động trong lĩnh vực công nghiệp, 3.300 USD với lao động làm công việc hộ lý, y tá, chăm sóc người bệnh...). Mặc dù triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, đây cũng là thị trường có số lao động Việt Nam bỏ trốn lớn, hiện có khoảng 22 nghìn lao động Việt Nam bỏ hợp đồng chưa về nước...
Tại Trung Đông, Ả-rập Xê-út là thị trường lao động lớn, có nhu cầu tiếp nhận hàng trăm nghìn lao động nước ngoài mỗi năm, được coi là một trong những thị trường "dễ tính" trong việc tiếp nhận lao động. Hiện có 50 doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động sang làm việc tại thị trường này chủ yếu trong các ngành nghề xây dựng, nhà máy, cơ khí, vận tải và giúp việc gia đình, với số lượng gần 18.000 người.
Trao đổi ý kiến với chúng tôi, lãnh đạo Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết: Thời gian qua, tại thị trường này còn phát sinh các khiếu nại của người lao động (đa phần liên quan lao động giúp việc gia đình) về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, điều kiện ăn uống, chủ sử dụng ngược đãi... Nguyên nhân chủ yếu do doanh nghiệp tuyển chọn chưa kỹ, không đào tạo, giáo dục định hướng đầy đủ, nên người lao động không giao tiếp được với chủ sử dụng, khó hòa nhập môi trường sống mới với văn hóa khác biệt, dẫn đến tâm lý chán nản, đòi về nước trước hạn...
Nhiều chuyên gia nhận định, ngoài các thị trường truyền thống như Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Trung Đông, hiện nay Nhật Bản được coi là thị trường tiềm năng. Vừa qua, trong khuôn khổ "Chương trình phái cử và tiếp nhận tu nghiệp sinh nước ngoài vào tu nghiệp tại Nhật Bản", Cục Quản lý lao động ngoài nước đã giới thiệu 173 doanh nghiệp phái cử uy tín, đủ điều kiện để tham gia chương trình. Việt Nam hiện là nước thứ hai sau Trung Quốc về số lượng thực tập sinh được nhập cảnh tiếp nhận hằng năm vào Nhật Bản. Ước tính có khoảng hơn 40 nghìn thực tập sinh Việt Nam đang thực tập nâng cao tay nghề tại Nhật Bản. Thu nhập trung bình của mỗi thực tập sinh tại Nhật Bản đạt từ 800 USD đến 1.000 USD/tháng. Bên cạnh những cơ hội đang mở ra cho Việt Nam thì hoạt động phái cử thực tập sinh sang Nhật Bản cũng đang đối mặt không ít khó khăn, khi phải cạnh tranh với 15 nước phái cử thực tập sinh sang Nhật Bản. Nhưng quan trọng hơn, ngay trong nước, cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp phái cử vẫn diễn ra. Để thu hút được đối tác Nhật Bản, nhiều doanh nghiệp đã giảm chi phí quản lý phái cử (do đối tác Nhật Bản chi trả) xuống mức rất thấp, thậm chí không nhận phí quản lý; thu tiền vé máy bay lượt đi đối với thực tập sinh; không nhận tiền đào tạo trước khi phái cử từ tổ chức tiếp nhận...
Cần những giải pháp mạnh
Tại hội nghị về đưa lao động đi làm việc tại một số thị trường ngoài nước do Bộ LĐ-TB và XH tổ chức mới đây, tham gia đối thoại với cơ quan quản lý nhà nước, nhiều doanh nghiệp XKLĐ thẳng thắn thừa nhận tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và phản ánh những khó khăn mà họ gặp phải.
Giám đốc Trung tâm đào tạo và cung ứng nhân lực quốc tế (thuộc Công ty TNHH Dịch vụ kỹ thuật và Xuất khẩu - TECHSIMEX) Nguyễn Thị Kim Thanh cho biết, mặc dù hoạt động lâu năm tại hai thị trường Nhật Bản và Ả-rập Xê-út, nhưng TECHSIMEX vẫn gặp nhiều khó khăn do cạnh tranh không lành mạnh trong tuyển dụng, có thời điểm công ty phải mua nguồn lao động với giá cao. Theo bà Thanh, để nâng cao chất lượng nguồn tuyển dụng, các doanh nghiệp cần có cơ chế phối hợp các trường dạy nghề trong đào tạo, để được cung ứng nguồn lao động chất lượng tốt.
Trong cuộc đối thoại với các doanh nghiệp XKLĐ, Bộ trưởng LĐ-TB và XH Phạm Thị Hải Chuyền khẳng định: XKLĐ là một trong các kênh quan trọng để giải quyết việc làm, tạo thu nhập cao, ổn định cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Vì vậy, thời gian tới, phải có những biện pháp mạnh nhằm chấn chỉnh những hạn chế lâu nay trong công tác XKLĐ.
Trong đó, Cục Quản lý lao động ngoài nước phải tăng cường thanh tra, kiểm tra để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm của các doanh nghiệp theo quy định pháp luật. Nhất là đối với các công ty không trực tiếp tuyển chọn, đào tạo và thu tiền của người lao động... Thu hồi giấy phép đối với những doanh nghiệp vi phạm hoặc hoạt động không hiệu quả trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, phối hợp cơ quan ngoại giao tìm kiếm cơ hội mở các thị trường mới, cũng như các ngành nghề mới, đem lại thu nhập cao và ổn định cho người lao động. Đồng thời, tăng cường quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động ở nước ngoài...
Đại diện các doanh nghiệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam Phạm Đỗ Nhật Tân cho rằng, để giải quyết tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong cùng một thị trường, tại các thị trường trọng điểm thu hút nhiều lao động, cần sớm thành lập ban tập hợp các doanh nghiệp tham gia đưa lao động đi làm việc tại thị trường đó. Cùng với chính sách chung của Nhà nước, ban phải có trách nhiệm thống nhất, chỉ đạo các doanh nghiệp, đưa ra tiếng nói chung về cùng một mức phí, vấn đề đào tạo cho người lao động...

Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

So sánh giữa đi du học và đi xuất khẩu lao động nhật bản

Hiện nay, có rất nhiều hướng đi cho các bạn trẻ, nhất là học sinh và sinh viên. Ngoài việc lựa chọn học đại học, cao đẳng,…thì các bạn còn có lựa chọn nữa là đi du học hoặc đi xuất khẩu lao động, nhất là xuất khẩu lao động nhật bản.
Nhưng nên đi du học hay đi xuất khẩu lao động nhật bản?
Đây là câu hỏi của không ít học sinh – sinh viên trước ngưỡng cửa cuộc đời. Cùng xem những ưu, nhược điểm của hai hình thức này để có quyết định phù hợp, đúng đắn.
Chi phí và thủ tục, lựa chọn nào đơn giản hơn?
Để có thể đi du học Nhật Bản người học phải mất ít nhất là 4 tháng học tiếng Nhật, làm thủ tục hồ sơ cá nhân. Và khoản phí bước đầu họ phải chi trả là 7.000 - 12.000 USD. Nhưng không cần đặt cọc, không kiểm tra sức khỏe.
Tiết kiệm hơn, những người xuất khẩu lao động chỉ phải bỏ ra khoảng 5, 500 - 6,500 USD (đặt cọc 3.000 USD). Nhưng đối tượng này sẽ phải kiểm tra về sức khỏe, cân nặng, chiều cao... Học ít nhất 6 tháng tiếng Nhật và có đầy đủ hồ sơ cá nhân.
Rỏ ràng tiết kiệm được ít tiền mặt nhưng đổi lại bạn cần đầu tư nhiều hơn về kỹ năng và sức khỏe.
Cuộc sống và công việc tại Nhật
Du học sinh tại Nhật chỉ cần làm 4 giờ/ngày trừ thứ 7 chủ nhật với thu nhập là 26-30 triệu đồng/tháng. Trừ đi các khoản phí: ăn uống, nhà ở, tàu xe, điện thoại, điện nước… họ sẽ còn lại 17-21 triệu đồng/tháng.
Lao động xuất khẩu vất vả hơn, họ sẽ phải làm 8h/ngày có thể làm cả thứ 7, chủ nhật. Với thu nhập 16.000.000 đ/tháng (đã trừ đi 4.450.000 đồng thu nhập cho nghiệp đoàn và đóng thuế 10%, chi phí ăn uống, sinh hoạt..).
Xét về thu nhập, du học sinh được ưu đãi và có thu nhập cao hơn. Nhưng thay vào đó họ phải nỗ lực để duy trì song song giữa học tập và công việc. Còn lao động xuất khẩu họ chỉ cần giữ sức khỏe và làm việc.
Xuất cảnh và quản lý
Du học sinh có thể xuất cảnh trong thời gian 5-6 tháng và về nước trong những dịp lễ. Còn lao động xuất khẩu, từ 6 - 12 tháng (có thể hơn) mới được xuất cảnh, không có đặc cách về nước trong dịp lễ Tết. Đặc biệt, lao động xuất khẩu sẽ bị quản lý chặt chẽ đến khi hết hạn hợp đồng 3 năm.
Học tập và ngôn ngữ
Du học sinh ngoài việc học tập ở trường sẽ được giao tiếp với rất nhiều người khác bên ngoài. Vì vậy họ sẽ được học rất nhiều, vốn tiếng cũng cải thiện đáng kể. Trong khi đó, lao động xuất khẩu chỉ được được giao tiếp trong khuôn khổ công việc và ít được tiếp xúc với bên ngoài.
Định hướng tương lai
Du học sinh có thể lưu trú tối thiểu 5 năm 3 tháng, tối đa là 7 năm và có thể ở lại vô thời hạn nếu nhờ đơn vị pháp lý sở tại. Tốt nghiệp, họ có thể về nước hoặc gia hạn ở lại Nhật Bản học, làm việc. Công việc sau khi tốt nghiệp thường ở những doanh nghiệp, công ty nước ngoài, hoặc kinh doanh riêng.
Không được như du học sinh, người lao động xuất khẩu đi làm theo dạng hợp đồng nên sẽ về nước ngay sau khi kết thúc kỳ hạn 3 năm và được gia hạn thêm 2 năm đối với ngành xây dựng. Không được gia hạn cư trú cũng như quay trở lại sau khi về nước. Về nước, những lao động này chỉ có thể làm công nhân hoặc tự mở doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh riêng.
Như vậy với việc du học, du học sinh có thể định tương lai lâu dài cho cá nhân. Còn lao động xuất khẩu, chỉ phù hợp với những người muốn rèn luyện chuyên sâu về công việc và tích lũy vốn ổn định hàng tháng.

Xu hướng xuất khẩu lao động tại việt nam

Xuất khẩu lao động hiện nay đang là một xu hướng mới trong thị trường lao động việt nam bởi sự hấp dẫn về chế độ đãi ngộ, đa số đều cao hơn so với việc lao động trong nước. Nên có rất nhiều người muốn đi xuất khẩu lao động ra nước ngoài với mong muốn có một cuộc sống tốt hơn cho bản thân và cho gia đình ở quê nhà.
Tín hiệu ở những thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam được cho là khá khả quan. Tuy nhiên, để giữ vững những thị trường này, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang đề xuất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội siết chặt quản lý.
Xem thêm: Xuất khẩu lao động nhật bản tại Châu Hưng
Tín hiệu khả quan
Việc lao động bỏ hợp đồng là nguyên nhân chính khiến phía Đài Loan dừng tiếp nhận lao động thuyền viên tàu cá gần bờ và lao động giúp việc gia đình của Việt Nam hơn 10 năm qua. Hiện vẫn còn khoảng 22.000 lao động ở thị trường này bỏ trốn chưa về nước. Tuy nhiên, tín hiệu đáng mừng là ngày 15/7 vừa qua, phía Đài Loan đã cấp phép lại cho Việt Nam đưa lao động giúp việc gia đình, thuyền viên tàu cá sang Đài Loan. “Dự kiến tới đây, khi 2 bên thực hiện việc gửi và tiếp nhận lao động thì tổng số lao động Việt Nam sang Đài Loan sẽ gia tăng nhanh”, ông Tống Hải Nam, Phó cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) nói.
Hiện, các thị trường Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ả rập Xê út, Malaysia vẫn được đánh giá là những thị trường trọng điểm. Nhận định về những thị trường này, ông Nam cho rằng, mặc dù Malaysia và Ả rập Xê út đang có sự sụt giảm về lao động do không hấp dẫn so với Nhật Bản, Hàn Quốc. Tuy nhiên, việc không đòi hỏi trình độ cao và nhu cầu tiếp nhận lớn, khiến Malaysia và Ả rập Xê út vẫn được coi là thị trường phù hợp với lao động Việt Nam.
Trong khi đó, Nhật Bản được nhận định là thị trường có nhu cầu gia tăng lớn về lao động thời gian tới, do Nhật Bản đang chuẩn bị cho thế vận hội Olympic tổ chức năm 2020, đòi hỏi lượng lớn lao động về xây dựng và đóng tàu. Chính phủ Nhật Bản đang xây dựng chính sách nâng thời gian cư trú tại Nhật Bản cho thực tập sinh 2 ngành này trong vòng 5 năm, đồng thời cho phép tiếp nhận trở lại thực tập sinh 2 ngành này sau khi trở về nước.
Tăng cường quản lý
Mặc dù tín hiệu khả quan từ Đài Loan là mở cửa trở lại cho giúp việc gia đình và đây cũng là nghề có mức lương khá cao với người lao động, nhưng yêu cầu của nghề này cũng rất cao, bởi có tới 80% gia đình thuê giúp việc gia đình để chăm sóc người già có bệnh.
“Do vậy, việc đào tạo người lao động không đơn thuần là quét dọn, nấu nướng, mà phải có kiến thức như những y tá, hộ lý. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần có chính sách kiểm soát, đánh giá và giám sát quy trình đào tạo của doanh nghiệp”, bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ kỹ thuật và Xuất nhập khẩu (Techsimex) nói.
Cũng theo bà Thanh, mặc dù Việt Nam có tới hơn 40 thị trường xuất khẩu lao động, nhưng trước những tín hiệu mới của các thị trường trọng điểm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nên kết hợp với Hiệp hội Xuất khẩu lao động, trong đó có đại diện các doanh nghiệp cung ứng lao động của cùng một thị trường, bàn bạc để thống nhất biện pháp quản lý lao động ở mỗi thị trường, nhằm đảm bảo quyền lợi người lao động và của doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC) lưu ý, môït số thị trường lao động chấp nhận môi giới như thị trường Đài Loan. Doanh nghiệp chúng ta mặc dù có thống nhất mức phí nhằm ổn định thị trường, nhưng phía công ty môi giới liên tục đòi hỏi nhiều vấn đề khác nhau. “Do đó, việc chuẩn hóa hợp đồng, các doanh nghiệp cùng dùng một mẫu hợp đồng, sẽ đảm bảo quyền lợi không chỉ cho người lao động mà còn cho doanh nghiệp”, ông Sơn nói.
Bà Trần Thị Minh Thu, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bách nghệ Toàn cầu (Glo-Tech), bày tỏ lo ngại, tại một số thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm tình trạng lao động trốn ở lại có xu hướng tăng. Bên cạnh tình trạng trốn ở lại, tại các thị trường lao động khu vực Trung Đông như Ả rập Xê út, phát sinh nhiều vụ việc mâu thuẫn giữa người lao động với chủ, nhất là ở khối lao động giúp việc gia đình. Bà Thu đề xuất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nên tăng cường cán bộ đại diện tại các thị trường này để xử lý kịp thời, hiệu quả các vụ việc phát sinh, đây cũng là biện pháp hữu hiệu nhằm giữ vững thị trường xuất khẩu lao động.
Theo Baodautu.vn

Thông tin đợt xuất khẩu lao động sang nhạt tại bà rịa vũng tàu

Thị trường xuất khẩu lao động nhật bản đang là xu hướng của nhiều lao động hiện nay. Một phần là mức lương tại thị trường Nhật bản hấp dẫn, sau khi kết thúc hợp đồng thì người lao động có thể tiếp tục kí kết hợp đồng hoặc về nước với sự hỗ trợ tốt nhất từ công ty xuất khẩu lao động sang nhật cho bạn.
Tháng 8/2015, Công ty cổ phần Thương mại tổng hợp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Getraco) sẽ xuất khẩu lao động đợt đầu tiên sang Nhật Bản, với số lượng khoảng 50 lao động.
Getraco là một trong số những công ty đầu tiên của cả nước được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép xuất khẩu lao động từ năm 1998. Trong những năm đầu, Getraco đã xuất khẩu gần 2.000 lao động đi Đài Loan và Malaysia. Nhưng trong gần 10 năm qua, hoạt động trong lĩnh này của Công ty bị cầm chừng vì những lý do khách quan.
Tuy nhiên, năm 2014, Đài Loan đã nới lỏng chính sách thu nhận người lao động từ Việt Nam và nhu cầu sử dụng lao động tại Nhật Bản tăng cao, tạo thuận lợi cho Getraco trở lại với hoạt động xuất khẩu lao động.
Mặc dù đã có chủ trương nhập khẩu trở lại lao động từ Việt Nam, nhưng phía Đài Loan yêu cầu các công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam phải đóng tiền thế chân để hạn chế tình trạng lao động bỏ trốn ra ngoài làm ăn tự do. Nhận thấy điều này chưa hợp lý, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang kế hoạch đàm phán với Đài Loan để bỏ điều khoản đóng tiền thế chân. Trước tình hình như vậy, ông Trần Ngọc Trinh, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Getraco cho biết, hiện tại, Getraco tập trung vào thị trường Nhật Bản.
Trong năm 2014, Getraco đã ký hợp đồng với 3 nghiệp đoàn lao động và đàm phán, ký biên bản ghi nhớ với 7 nghiệp đoàn lao động khác, đều của Nhật Bản.
Theo hợp đồng đã ký, phía Nhật Bản sẽ cùng với Getraco sơ tuyển để tổ chức đào tạo tại Việt Nam trước khi tuyển chính thức đi Nhật Bản. Thời gian đào tạo kéo dài 4 - 6 tháng. Các lĩnh vực tuyển là lao động phổ thông, thợ cơ khí, thợ điện tử… phục vụ các nhà máy, công xưởng, công trình xây dựng.
Những người trúng tuyển phải tự chịu học phí, còn những người không trúng tuyển thì sẽ được các nghiệp đoàn hoàn trả học phí.
Ông Trinh cho biết, xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, sau khi trừ các chi phí, người lao động có thể “bỏ túi” 17 - 20 triệu đồng/tháng (nếu làm thêm, thì thu nhập còn cao hơn). Ngoài ra, Getraco còn tổ chức xuất khẩu đi Malaysia để làm thuyền viên, với thu nhập sau khi trừ chi phí sinh hoạt là 7 - 8 triệu đồng/tháng.
Getraco có trụ sở chính tại Vũng Tàu. Getraco còn có Chi nhánh Hà Nội làm đầu mối để thực hiện xuất khẩu lao động sang Malaysia, Chi nhánh TP.HCM thực hiện việc xuất khẩu lao động sang Nhật Bản và Văn phòng đại diện tại Nghệ An làm nhiệm vụ thu nhận lao động đầu vào cho cả hai thị trường.
Ông Trần Ngọc Trinh cho biết, nếu chất lượng lao động xuất khẩu trong năm nay đáp ứng tốt yêu cầu của các đơn vị sử dụng lao động Nhật Bản, thì trong năm tới, một nghiệp đoàn khác của Nhật Bản cũng sẽ ký hợp đồng với Getraco, nên cánh cửa xuất khẩu lao động sang Nhật Bản đang khá rộng mở.
Theo Minh Lý – baodautu.vn

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Giới thiệu về 3 loại chữ viết trong tiếng nhật

Khi bạn muốn đi xuất khẩu lao động nhật bản phải học tốt tiếng nhật.
Khi bạn học tiếng nhật phải làm quen với bộ từ vựng tiếng nhật và bạn sẽ biết trong tiếng nhật có tới 3 loại chữ viết, đó là: chữ Kanji, chữ Hiragana và chữ Katakana.
Vậy đặc điểm của 3 loại chữ này thế nào, cùng tìm hiểu trong bài viết sau nhé.
Chữ Kanji trong tiếng Nhật
Giống như nhiều quốc gia khác trong khu vực, Nhật Bản cũng chịu sự ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và một trong những biểu hiện rõ nét nhất chính là chữ viết. Điều này đã dẫn tới sự ra đời của hệ thống chữ Kanji.
Trong tiếng Nhật, các danh từ và gốc của các tính từ và động từ thường viết bằng chữ Hán gọi là chữ Kanji. Các trạng từ cũng đôi khi được viết bằng loại chữ này. Điều này đồng nghĩa với việc để học được chữ Kanji trong tiếng Nhật bạn phải học các chữ tiếng Hán. Làm được điều đó, việc học tiếng Nhật đặc biệt với chữ Kanji sẽ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Mặc dù vậy, trong khi sử dụng người Nhật dần phát hiện ra những hạn chế của chữ Kanji. Khó khăn gặp phải là do tiếng Nhật là ngôn ngữ “chắp vá” vì vậy phải ghép vài âm tiết mới thành một từ trong. Thêm vào đó, ngữ pháp tiếng Nhật có những quy định khác nhau về cách chi thì của động từ, do đó chữ Kanjichưa thể hiện hết được những điều này.
Tuy nhiên chữ Kanji vẫn có những ưu điểm của riêng mình đó là: so với chữ Hiragana, Kanji sẽ giúp việc đọc của bạn trở nên dễ dàng và diểu hiểu hơn rất nhiều vì khi dùng Hiragana bạn khó mà biết được từ này bắt đầu và kết thúc ở đâu. Thêm vào đó, chữ Kanji cũng không tới mức quá khó học như bạn vẫn nghĩ.
Sự ra đời của chữ Hiragana
Hiragana còn được gọi là kiểu chữ mềm của tiếng Nhật là kiểu chữ âm tiết truyền thống của tiếng Nhật, một thành phần của hệ thống chữ viết Nhật Bản.
Hiragana là chữ viết ra đời sau Kanji nhằm khắc phục những khó khăn mà hệ thống chữ Kanji gặp phải trong việc thể hiện ngôn ngữ tiếng Nhật bằng chữ viết. Do đó nên có thể hiểu nhiệm vụ chính của chữ Hiragana là thực hiện chức năng ngữ pháp trong tiếng Nhật. Điều này giúp việc thể hiện của chữ viết tiếng Nhật trở nên đơn giản, dễ hiểu mà vẫn thực hiện đầy đủ chức năng ngôn ngữ của mình.
Tên gọi Hiragana được hình thành từ tiếng “hira” là “bình” và “gana” là “mượn tạm”. Từ đó có thể hiểu rằng, Hiragana là hệ thống chữ mượn tạm và hình thành bằng cách đơn giản hóa chữ ban đầu.
Katakana
Khi sự giao lưu văn hóa phương Tây tới Nhật Bản ngày một nhiều và sâu sắc, việc phiên âm lại tiếng nước ngoài từ chữ viết Latinh sang tiếng Nhật bắt đầu gặp những khó khăn. Do có nhiều từ, người Nhật không tìm được chữ Kanji nào tương ứng để thể hiện do đó chữ Katakana ra đời nhằm giúp việc đọc phiên âm tiếng nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Chính vì vậy mà trong 3 hệ thống chữ viết tiếng Nhật, Katakana được dùng chủ yếu cho việc ghi phiên âm các từ mượn từ tiếng nước ngoài. Nó cũng có thể được sử dụng để nhấn mạnh 1 từ nào đó giống như khi ta dùng chức năng chữ in nghiêng.
Với việc tìm hiểu sự ra đời của các hệ thống chữ viết tiếng Nhật chúng ta đã hiểu vì sao có tới 3 loại chữ viết trong tiếng Nhật. Vai trò của chúng trong tiếng Nhật là hoàn toàn khác nhau do đó khi học tiếng Nhật bạn chẳng thể bỏ qua bất cứ loại chữ nào trong số này cả. Bên cạnh đó với sự ra đời và phát triển của các loại chữ viết tiếng Nhật chúng ta phần nào hiểu thêm về văn hóa Nhật Bản, để thấy rằngngười Nhật luôn sẵn sàng tiếp thu cái mới nhưng luôn đề cao cái riêng của mình trong đó.